Khi Sống, Chúng Ta Hãy Nói Chuyện Với Nước

Tất cả tùy thuộc vào thái độ tinh thần của bạn

Tiến sĩ Joan Davis là một trong những độc giả đọc về hađô và xem hình các tinh thể trong sách tôi và ông đã vô cùng xúc động. Tiến sĩ Davis là giáo sư hưu trí ở trường Đại Học Kỹ Thuật Zurich và bà đã nghiên cứu nước hơn ba mươi năm. Tiến sĩ Davis đã nói điều nầy với tôi:
“- Việc ông nghiên cứu và chụp hình những tinh thể nước đá đưa ra cho chúng tôi hai điểm quan trọng.


Một là trở nên ý thức rằng nước đáp ứng ngay cả với năng lượng vi tế. Tôi cũng muốn để các khoa học gia và các viên chức biết rằng nước hiện nay gần như không có sự hỗ trợ nào. Tôi cảm thấy kỹ thuật nầy có thể được dùng trong nhiều lãnh vực chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh.
Hai là biết tôn trọng nước hơn. Điều quan trọng là chúng ta giành lại mong ước đối xử tôn kính với nước”.
Trong thời Hy Lạp cổ đại, người ta tỏ lòng thực sự tôn kính nước và nhiều truyền thuyết Hy Lạp dựa trên việc bảo vệ nước. Nhưng sau đó khoa học xuất hiện và từ bỏ những truyền thuyết nầy bởi vì người ta bảo rằng, chúng không có tính khoa học. Từ đó, nước mất tính thần bí và chỉ trở nên một vật chất như những vật chất tầm thường khác.
Trong nền văn hóa, văn minh hiện đại, chúng ta đã mất thái độ tôn kính nước và đang quay đầu về hướng mà kỹ thuật có thể làm sạch nước, khi cần. Tuy nhiên, lưu ý là: “Nước được làm cho trong sạch không phải nước trong sạch”. Nước đã qua tiến trình các nhà máy xử lý thì không phải nước hình thành tinh thể đẹp. Điều nước đòi hỏi không phải là trong sạch mà là lòng tôn kính.
Bởi vậy, tôi rất xúc động khi nghe bà Joan Davis nói: “Tôn kính nước”. Đây là lời nói có thẩm quyền từ một nhà khoa học đã từng làm việc ở Switzerland, một quốc gia tiên tiến trong việc nghiên cứu nước.

Cầu nguyện làm thay đổi nước
Nước trong khác với nước được kỹ thuật làm trong. Lời phát biểu của tiến sĩ Davis về hiệu quả nầy nhắc tôi nhớ đến một thí nghiệm chúng tôi đã làm cách đây một thời gian.
Chúng tôi quyết định tiến hành một thí nghiệm lớn theo những gì mà tiến sĩ Nobuo Shioya đã khẳng định về oai lực của lời kinh. Trước Thế Chiến thứ II, tiến sĩ Shioya là giáo sư trợ lý dạy tại trường đại học Hoàng Đế Keiyo, ở Seoul, Hàn Quốc. Khi trở về Nhật Bản, ông mở phòng mạch khoa nội. Ông nghiên cứu Liệu pháp Dây an toàn và dùng nó trong nghề của ông. Ở độ tuổi trên một trăm, ông vẫn quá sung sức đến nỗi ông thích chơi gôn hằng ngày. Tiến sĩ Shioya khuyến khích chúng tôi đọc kinh, bài kinh mà ông gọi “The Great Declaration: Năng lực vô tận của vũ trụ được kết tinh và đã tạo nên thế giới rất hài hòa và chân thật”. Tôi được ảnh hưởng bởi cái điểm nói nó một cách tích cực ở thì quá khứ, đó là “đã tạo nên – đã trở thành”.
Sau đó, chúng tôi làm thí nghiệm gì?
Vào lúc 4 giờ 30 sáng ngày 25 tháng 7 năm 1999, ba trăm người tụ họp gần hồ Biwa, hồ lớn nhất ở Nhật Bản. Theo truyền thống nói: “Khi nước hồ Biwa trở nên trong sạch thì nước khắp toàn quốc mới trở nên trong sạch.”
Hồ Biwa đã bị ô nhiễm. Nước hồ bẩn và có mùi hôi, và những khóm sậy đẹp đã biến mất. Vào mùa hạ, tảo ngoại lai Canada mọc tràn lan và bốc mùi hôi thối đã trở thành vấn đề quan tâm chung trong vùng.
Thật đáng tiếc. Hồ Biwa là hồ mẹ của Nhật Bản. Nếu nước ối trong tử cung mẹ bị ô nhiễm, thì loại ảnh hưởng tiêu cực gì sẽ phủ lên khắp cả nước đây?
Vì thế chúng tôi quyết định thức dậy sớm để làm trong nước hồ Biwa bằng năng lực hađô. Vào buổi sáng hôm đó, khí trời thật dịu mát, tiến sĩ Shioya dẫn chúng tôi đọc bài kinh “The Great Declaration” mười lần.
Một tháng sau, vào ngày 27 tháng 8, tờ báo Kyoto có đăng một bài viết dài có tựa đề: “Mùa hè nầy tảo ngoại lai không còn phát triển tràn lan, không còn mùi hôi thối nữa”. Bài báo có đoạn như thế nầy: “Năm nay, hiếm có bụi sậy nào phủ mặt hồ và không còn phàn nàn về mùi hôi thối do tảo Canada gây ra nữa. Năm ngoái số lượng tảo gặt lần ấy lên đến 1.550 tấn, nhưng năm nay gồm cả những loại tảo khác chỉ còn lại chừng 100 tấn thôi. Người điều hành bộ phận nầy (bộ phận đẩy mạnh cây sinh thái của quận) bình luận: ‘Tôi nghĩ không cách gì hiểu được số lượng tảo tại sao lại tụt xuống quá thấp. Chúng tôi đang định hỏi ý kiến của các chuyên gia và truy tìm vào nguyên nhân’”.
Giả sử rằng, nguyên nhân mà ban hành chính quận muốn biết, chính là hađô của bài kinh “The Great Declaration” tạo nên phép lạ như thế – quả là điều đương nhiên. Bạn nghĩ gì? (xem hình 5.1).
Trong lúc tôi đang được thuyết phục rằng năng lực của hađô có thể thay đổi nước trong cái hồ lớn nhất của nước Nhật, một tiêu đề trong tờ báo Sankei vào ngày 16 tháng 4 của năm sau bắt mắt tôi: “Siêu âm phân hủy chất di-ô-xin trong nước. Thật lợi ích để lọc sạch hồ và đầm lầy”. Bài báo nầy giới thiệu kết quả nghiên cứu của giáo sư Yasuaki Maeda, trường đại học quận Osaka, trường Kỹ thuật. Nó gây ấn tượng rất mạnh cho tôi, vì tôi đang tìm chứng cứ khoa học cho ý tưởng của mình.
Sóng siêu âm phân hủy gần như toàn bộ những chất hữu cơ như chất di-ô-xin và PCB trong nước. Được biết vào ngày thứ 15 rằng, kỹ thuật nầy được giáo sư Yasuaki Maeda, trường đại học quận Osaka, trường Kỹ thuật – cho sóng siêu âm 200 kilôhéc đi qua nước tạo ra nhiều bọt nhỏ hút những hỗn hợp hóa chất. Khi những bọt nầy vỡ tan, những hỗn hợp hóa chất bị phân hủy. Có thể được sử dụng để lọc nước bẩn trong hồ và đầm lầy cũng như phân hủy chất flu-ô-cácbon, phá hủy tầng ô zôn của bầu khí quyển. Những chất nầy được biểu thị như là chất khó phân hủy; do đó, nó đã từng là vấn đề cần được giải quyết. Khi kỹ thuật nầy được làm cho thích hợp với ứng dụng thực tiễn, sẽ tạo ra sự xáo động trong nước cũng như ngoài nước.
Sóng siêu âm là âm thanh cao hơn ngưỡng âm thanh mà con người có thể nghe được (16.000 đến 20.000 héc). Nhờ vào việc tăng áp và hạ áp dưới nước, những sóng nầy tạo ra nhiều bọt có kích thước micrô. Một bọt nước có sự sống rất ngắn, chỉ mất 0,1 micrôgiây (1/100.000 giây) rồi vỡ tan. Việc nghiên cứu mới đây cho thấy rằng khi bọt được tạo ra và vỡ tan tùy vào áp suất nước quanh nó, bọt tạm thời tạo ra chất nóng hơn 5.000oC và áp suất khoảng 1.000 át-mốt-fe (đơn vị).
Khi hợp chất hữu cơ được khử trùng bằng clo có quan hệ kém với nước, chúng bám vào bọt. Nhờ vào sức nóng và áp suất của những bọt đang vỡ tan, những hỗn hợp bị phân hủy đến khí axít cacbonic và ion clorua. Trong thí nghiệm nầy, bằng cách cho sóng siêu âm 200 kilôhéc qua sự hòa tan PCB của 10 PPM trong ba mươi phút, 95% PCB bị phân hủy, và những kết quả tương tự đạt được với chất di-ô-xin và flu-ô-cacbon. Là cách cho dời những hợp chất hóa học trong nước, phương pháp làm giảm chất clo nầy những hợp chất bằng cách chiếu sáng ôzôn và tia tử ngoại ngay gần với việc sử dụng thực tiễn (1). Phương pháp sử dụng siêu âm 200 kilôhéc là vô hại đến cơ thể con người, được cho là đối xử nước một cách an toàn và không tốn kém.
Làm sao nước cộng hưởng với sự rung động của sóng siêu âm để nâng cao chất lượng của nó, âm thanh của bài kinh “The Great Declaration” vang vọng khắp vùng ở hồ Biwa đúng vào lúc bài báo nầy ra đời.
Tôi tin rằng những lời nầy dựa trên âm thanh Thiên Nhiên và được phát triển bằng cách học từ Thiên Nhiên. Vì vậy khi chúng ta nói từ “vũ trụ”- nó có hađô cùng với vũ trụ; như vậy, tôi tin bài kinh ắt hẳn đạt đến tầm mức vũ trụ. The Great Declaration dạy: “Năng lực vô tận của vũ trụ…” Hađô trong sạch, thiêng liêng từ lời cầu nguyện của chúng ta ắt hẳn du hành đến vùng siêu âm xa trong vũ trụ, cộng hưởng với nó và trở về lại với hồ nước.

Sự kiện nầy được tiếp tục


Quan niệm của tôi về hađô có khuynh hướng không được chấp nhận rộng rãi và được hiểu bởi nhiều người nghĩ rằng khoa học là thuốc chữa bách bệnh. Tôi từng nghĩ rằng nếu tôi có thể làm việc với những người về phía khoa học hiện đại và hay trao đổi thông tin về những kết quả lẫn nhau, chúng tôi sẽ có khả năng phát ra những thông điệp về hađô rộng rãi đến đông đảo quần chúng.
Hađô mà chúng tôi đang bàn về – và kỹ thuật mới của giáo sư Maeda phát minh ra đã được đáp ứng bởi bài báo xuất hiện trong tờ Sankei vào ngày 13 tháng 3 năm 2003, trong đợt thứ sáu của bài báo có tựa đề “Khoa học Nước”. Dưới tiêu đề phụ: “Đáp ứng siêu âm, những vật có hại sẽ bị phân hủy”, những kết quả nghiên cứu của giáo sư Maeda được báo cáo lại. Ngoài ra, việc nghiên cứu về chơi nhạc cho nước nghe mà tôi đã thực hiện và giới thiệu cũng được mọi người nhắc đến.
Trong tương lai tôi tin rằng năng lượng hađô sẽ hấp dẫn sự chú ý ngày càng rộng rãi hơn và cởi mở hơn. Điều nầy sẽ thật tuyệt vời làm sao!
Việc nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng hađô làm thay đổi nước. Nếu chúng tôi nói chuyện với nước bằng thái độ tích cực và tôn kính, nước nhất định sẽ thay đổi. Ngay cả nước trong hồ lớn có thể thay đổi thì nước trong cơ thể bạn cũng phải thay đổi.

“Chúng ta hãy cùng làm!” hơn là “Làm đi!”

Một người trở nên quan tâm đến những tấm hình tinh thể nước của chúng tôi là một phụ nữ Thụy Sĩ duyên dáng tên là Manuela Kihm. Cô Kihm đánh giá cao những tấm hình trong sách tôi từ hồi đầu. Cô nói: “Điều kỳ diệu của những tấm hình tinh thể nước là chúng tôi có thể xem chúng bằng con mắt thật của mình. Kết quả, chúng tôi có ý thức tạo nên bước nhảy vọt nhanh. Ý thức thức dậy xuất hiện rất nhanh. Sự kiện là những điều chúng tôi từng suy nghĩ và cảm nhận có thể được thấy làm thay đổi nầy nhanh hơn”. Cuối cùng, cô mời tôi diễn thuyết ở Switzerland. Sự thành công lúc bấy giờ dẫn tôi viếng thăm Châu Âu hằng năm để diễn thuyết.
Cô Kihm tiếp tục nói:“Tôi có hai đứa con. Tôi biết rằng liệu khi tôi nói chuyện với chúng một cách âu yếm hay chỉ ra lệnh cho chúng, chắc sẽ có sự cách biệt rất lớn đối với chúng. Câu nói: “Chúng ta hãy cùng làm!” hay “Làm đi!”; cũng vậy, tôi hiểu rằng chúng tôi cảm thấy nó khác nhau ở mức mỗi tế bào trong cơ thể.”
Những lời biểu lộ: “Chúng ta hãy cùng làm!” hay “Làm đi!” cả hai thường được cha mẹ dùng khi dạy bảo hay kỷ luật con cái họ. Con cái khi nghe những lời biểu lộ nầy sẽ cảm thấy khác tùy theo biểu lộ nào được dùng. Nếu bạn là đứa bé, bạn thích được biểu lộ như thế nào?
Chúng tôi dán nhãn với câu “Chúng ta hãy cùng làm!” và “Làm đi!” vào hai chai nước và chụp hình (xem hình 5.2).
Như đã nói trước, nước được dán nhãn: “Chúng ta hãy cùng làm!” hình thành tinh thể. Nó có hình có khuynh hướng được gọi sắc sảo hơn là đẹp. Trái lại, nước cho thấy chữ “Làm đi!” chỉ hình thành vòng tròn kinh khủng. Xét cho cùng, đòi hỏi, mệnh lệnh không thể mang hađô tốt được.

“Yêu thương” và “Tri ân” thay đổi thế giới

Nước đáp ứng những lời được dùng để nói chuyện với trẻ. Điều nầy làm tôi nghĩ rằng nước có thể đáp ứng thông tin liên quan đến mẹ và cha – là những người trút tình thương lên con cái họ. Sau khi viết những lời khác nhau trên giấy, chúng tôi cho nước thấy.
Đối với thông tin liên quan đến mẹ, tôi chọn “hương vị mẹ nấu”, “mẹ chăm sóc ”, “vợ và mẹ chồng”, “dây rốn”, “gia đình êm ấm”, “sinh đẻ”, “sữa mẹ”, “chăm sóc con trẻ” và “cảm giác an toàn”. Ngoại trừ một thông tin, còn lại tất cả chúng đều có kết quả những tinh thể tuyệt vời. Thông tin không thể hình thành tinh thể là “mẹ chồng và nàng dâu”. Thông tin nầy dường như bao hàm ý tiêu cực trong chừng mức nào đó.
Đối với thông tin liên quan đến cha, tôi chọn “thú tiêu khiển của ba”, “chơi trốn tìm với ba,” “du ngoạn gia đình”, “ba dạy bảo”, “gương mẩu của ba” và “trụ cột gia đình”. Tất cả đều hình thành những tinh thể như chúng tôi mong đợi (Để có đầy đủ chi tiết, xin xem cuốn Messages from Water, tập 2) (2).
Đôi chút trái với điều tôi mong đợi là nước cho thấy bằng tiếng Nhật “Trụ cột gia đình”. Tôi nghĩ nước hình thành tinh thể có hình dáng vững mạnh, tuy nhiên, tinh thể thực sự là rắn chắc và nhỏ xíu. Nếu từ “Trụ cột gia đình” đã được cho nước thấy khi người cha vẫn được cho như là người đứng đầu trong gia đình, nước ắt sẽ hình thành tinh thể khác. Tinh thể chúng tôi đạt được có thể phản ánh thực tại ngày nay “địa vị” của người cha cảm thấy hơi ít được kính trọng trong gia đình hơn trước kia (xem hình 5.3).
Trong bất cứ sự kiện nào, nước đáp ứng thông tin rất nhạy cảm liên quan đến từ “yêu thương” và “tri ân” của gia đình.
Nước được ảnh hưởng bởi sự rung động với cảm nhận của “yêu thương” và “tri ân”. Điều nầy ắt đúng với bạn vì bạn là nước và thế giới bạn đang ở trong đó.
Bà Kazue Kato được biết là nhà hoạt động xã hội giải phóng phụ nữ và nhà chính trị ở Nhật Bản. Bà thắng cuộc trong kỳ bầu cử lần thứ nhất sau Thế chiến Thứ II và trở thành hội viên nữ đầu tiên của Nghị viện Quốc gia ở Nhật Bản. Bà Kato tiếp tục đề xuất nhiều ý kiến mới và góp phần to lớn để nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Bà sống đến 104 tuổi. Trong lần phỏng vấn vào sinh nhật thứ một trăm của bà. Tôi hồi tưởng bà được hỏi: “Bí quyết trường thọ của bà là gì?” Bà trả lời: “Một ngày, tôi có mười kinh nghiệm làm xúc động tâm tôi. Đó là bí quyết trường thọ của tôi”.
Tôi nghĩ điều nầy thật tuyệt vời. Tôi có thể hiểu rất nhiều ý những gì bà muốn nói. Nhờ những kinh nghiệm xúc động đến tâm chúng tôi, chúng tôi có thể cộng hưởng với hađô tốt, và ngược lại sẽ điều chỉnh những quấy nhiễu hađô nội tại trong cơ thể chúng tôi.
Vào buổi sáng, tôi thức dậy và đi ra thấy mặt trời. Tâm tôi xúc động với vẻ đẹp của mặt trời rạng rỡ và tôi cảm thấy cảm ơn tôi còn sống. Tôi cảm thấy thích tôn kính mặt trời. Ngắm vườn, tôi tìm thấy những đóa hoa lấp lánh dưới ánh nắng ban mai cũng làm tâm tôi xúc động. Trong cách nầy, tôi có thể bắt đầu một ngày mới với nhiều kinh nghiệm làm xúc động tâm tôi, ngày đó thành ra tuyệt vời.
Nếu tôi diễn tả những kinh nghiệm làm xúc động bằng tán thán từ, nó sẽ có sự trao đổi năng lượng sống. Chúng tôi cộng hưởng với nhau. Tôi nhận sự rung động từ mặt trời và cũng từ những đóa hoa rực rỡ dưới ánh nắng ban mai. Khi chúng tôi có thể trao đổi những rung động tuyệt vời, chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi đang san sẻ sự sống.
Nếu bạn không chú ý mặt trời chiếu sáng rực rỡ và những đóa hoa lấp lánh dưới ánh nắng ban mai, có lẽ bạn không sẵn sàng cộng hưởng với những rung động tuyệt vời của chúng. Nếu rung động nội tại của bạn như thế, thì sức khỏe của bạn cũng có thể bị tổn thương.
Không rung động nghĩa là chết. Khi chúng ta gặp điều gì tuyệt vời, chúng ta hãy cảm nhận tâm chúng ta đang xúc động; như thế, chúng ta hãy cộng hưởng với những rung động tươi sáng.
Chúng ta phải tỏ lòng tôn kính nước, yêu thương và tri ân nước, và nhận những rung động với thái độ tích cực.
Sau đó, nước thay đổi, bạn thay đổi và tôi thay đổi. Bởi vì bạn và tôi đều là nước.

___________________________________________

Chú thích:


(1) Suốt trên 30 dòng, quá nhiều thuật ngữ khoa học chuyên môn, ngại rằng không diễn đạt được chính xác ý tưởng của tác giả.
(2) Không có, tuy nhiên, người dịch chỉ muốn giữ lại nguyên văn..

Trích: Chương 5
Năng Lực Thực Sự Của Nước

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét