Bùi Giáng và THÔNG ÐIỆP CỦA THƠ

Hơn ai hết, thi nhân là người cảm thức sâu xa những thống khổ nhức nhối của cuộc tồn sinh, và truyền đạt cho ta chân lý đầu tiên của Phật qua muôn vàn sắc thái, bằng những vần điệu bất hủ như chính sự vô thường, khổ, như chính cuộc đời\. Ta là ai, từ đâu đến, sinh ra để làm gị nỗi khắc khoải ấy không ngừng trở lại trong tâm hồn thi nhân:

Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất tri lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Ðộc đương nhiên nhi lệ hạ

(Trần Tử Ngang)
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa đến
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
(Nhất Hạnh dịch)

Nỗi khắc khoải ấy biến thành một niềm nhớ mông lung, một tình hoài hương, cái quê hương mà ta không biết. Ðó là tâm trạng ta bắt gặp từ thuở bé, sau mỗi trưa ngủ dậy, bỗng dưng òa khóc không duyên cợ Ta có cảm giác như đã đánh mất đi một cái gì mà ta đã quên bẵng mặt mày\. Ðó dường như là một tiền kiếp xa xăm ta vừa quên vừa nhợ Lớn lên, đó là nỗi sầu vơ vẩn, không đối tượng mà thi nhân gọi là "nỗi sầu thế kỷ" (mal du siècle) khiến người phàm tục xem họ là kẻ than mây khóc gió, không ốm mà rên. Song kỳ thực, đó là dấu hiệu thức tỉnh của những con người hiếm hoi chưa bị ô nhiễm bởi cuộc túy sinh mộng tử (sống say chết mộng). Tâm trạng khắc khoải này trở thành một nỗi đau mãnh liệt, một khoảng trống rợn người:

Nửa đời bỏ lạc thâu canh
Nửa linh hồn bỏ nước xanh lên bờ
Khổ đau về chẳng hẹn giờ
Hoang liêu phố rộng bước hờ hững đi
(Bùi Giáng- Mưa Nguồn)

Khoảng trống này là một thử thách gay go với người độc cư lâu năm chầy tháng. Khi tất cả đều được bỏ sau lưng, người độc cư đối diện với hư vô vây bủa, và dần dần thấy rằng chỉ có cái Không đó là thực, gần như sờ mó được, nhưng lại không thể nào chịu đựng: Sau lưng, trước mặt, hư không một trời
(Tuệ Ðăng)

Cảm giác đau khổ vì khoảng trống đó là một loại ma ngũ ấm, nghĩa là một thứ phiền não phát sinh từ cái thân ngũ uẩn. Nó không do cảnh ngoài, không có đối tượng rõ rệt, nhưng nó bao trùm khắp cả, hiện diện khắp nơi, làm cho hành giả có thể phát điên lên được. Có thể diễn tả nỗi sầu ấy như nỗi "sầu tình" của Nguyễn Công Trứ: Sầu ai lấp cả vòm trời . . . . . . Giống ở đâu vô ảnh vô hình Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng
Hay như nỗi hoang liêu trong Mưa Nguồn:

Sầu thiên cổ chợt về trên nước đạo
Có lúc nỗi sầu ấy trở nên thác loạn:
Trung tâm trái đất ruột rà rối tung
Ðó là một nỗi sầu to rộng như của đất trời:
Ðất với trời chung một nghĩa bơ vơ

Vũ Hoàng Chương cũng diễn tả cái "thành sầu chất ngất" ấy trong Thơ Say:

Nhưng em ơi
Ðất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu không sụp đổ

Nỗi sầu không tên tuổi, nỗi hoài hương tiền kiếp ấy mãi theo chân con người suốt cuộc tồn sinh mỗi lúc tàn canh tỉnh rượu:

Rồi tôi lớn đi vào đời chân bước
Cỏ mùa xuân bị giẫm nát không hay
Chợt có lúc hai chân dừng một lượt
Người đi đâu\? Xưa chính đã chỗ này

(Mưa Nguồn)

"Cỏ mùa xuân" ấy phải chăng là Phật tính nguyên sơ, bản lai diện mục, viên bảo châu vô giá mà tên cùng tử là ta đã lỡ đánh mất tự bao giở Phải chăng đó là một nửa linh hồn của ta đã bị bỏ lại trong nước xanh, khi ta bước lên bờ kiếp sống lãng du đau khổ, để rồi thỉnh thoảng "giật mình lại nghĩ thương mình xót xa", để chợt có lúc đang đi bỗng dừng bước tự hỏi: ta đi đâu bây giợ Và một cảm giác cô đơn vô hạn bỗng trào dâng:

Cô độc là gì còn nên nói
Vui là vui gượng với tri âm . . .
Mắt xin khép vì nghe buồn bước tới
Từ bốn bên gió đẩy lại hoang liêu

(Mưa Nguồn)

Giữa vũ trụ bao la, mỗi con người là một dấu chân lạc đà bé bỏng trên sa mạc đã quên mất đường về chốn cũ:

Người đã định một lần thôi để hỏng
Ðường vu vơ về chốn cũ trăm năm
Miền cát lạnh chân lạc đà bé bỏng
Bóng hình em tơi tả dưới trăng rằm

(Mưa Nguồn)

Dù người ta có tìm cách lãng khuây trong men rượu, cuộc tình, "Nó" vẫn thỉnh thoảng xuất hiện: Hai người, nhưng chẳng bớt cô đơn
(Xuân Diệu)

Dập dìu bên liễu chùng buông
Tình chưa thoảng chợt, tiếng buồn lại dâng

(Mưa Nguồn)

Làm sao khuây khỏa được, khi ta đã đánh mất đi một nửa linh hồn trong nước xanh để bước lên bờ đau khổ. Trong khổ làm gì tìm thấy được hân hoan, Niết bàn thật sư Phật đã dạy: "Ðời khổ thì thật là khổ, không thể làm cho vui lên" (Kinh Di Giáo). Quả vậy, cái vui của ta cũng chỉ là trá hình của đau khổ, là mặt trái của đau khổ: Tìm trong đau đớn có hân hoan? Lạnh giá hay không giấc mộng vàng? (Mưa Nguồn) Dù mộng có vàng son cách mấy thì cũng chỉ là mộng, vô cùng băng giá, và không thể tìm trong đau đớn mà có nỗi hân hoan. Cho nên thi nhân vẫn ôm mối hận không bao giờ thỏa mãn:

Trời đất lạnh và lòng anh không thỏa
Gởi hồn đi phương hướng hút heo ngàn
Hồn ngơ ngác loay hoay về hỏi dạ
Có bao giờ dạ thỏa giữa không gian

(Mưa Nguồn)

Giữa cảnh xuân về rộn ràng oanh với yến, thi nhân cũng không thể quên nỗi sầu vạn đại, nỗi mất mát khôn khuây vì "nửa linh hồn" đã "bỏ nước xanh lên bờ":

Lệ đã chảy ròng ròng rớt xuống
Với xuân về oanh yến rộn bên tai
Em quốc sắc em thiên hương đã uổng
Làm sao khuây khỏa hận thiên tài

(Mưa Nguồn)

Làm sao không đau khổ khi thấy rõ rằng tất cả chỉ là sương với bóng, ảo và mộng:

Sương với bóng bay về trên cỏ nội
Bủa mịt mờ ảo mộng lạnh bốn bên

(Mưa Nguồn)

Ðó là một nỗi ray rứt khó chịu, khi mọi vẻ đẹp của cuộc đời đều mong manh hư ảo, càng đẹp càng như là không thật có, và càng mau tuột khỏi tầm tay\. Hạnh phúc bao giờ cũng mơ màng như sắc như không, như vang như bóng, luôn luôn mang theo nó- như trái cây mang hột giống-bóng tối của đau khổ và huyễn mộng:

Chiều bên lá lung lay vàng cửa khép
Bóng trời sa trùm tiếng phủ em cười

(Mưa Nguồn)

Làm sao không đau đớn khi ta phải sống mà không biết tí gì về chính mình, về ngọn nguồn của sống chết, của khổ đau và hạnh phúc:

Trời, thuở đó ngần nào em khổ sở
Khóc khi nhìn gió thổi nước sương buông
Tìm xa vắng bên kia bờ đổ vỡ
Dòng sông đâu em có biết ngọn nguồn?

(Mưa Nguồn)

Ấy vậy mà cuộc đời đâu có để cho ta dừng lại tìm hiểu, hỏi han cho ra lẹ Nó cứ tiếp tục chảy tuôn, thời gian cuồn cuộn như thác đổ trên đầu ta, để vào một buổi sáng đẹp trời, nhìn vào gương ta bỗng thấy tóc ta đà trắng bạc:

Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
Hựu bất kiến cao đường minh cảnh bị bạch phát
Triêu như thanh y, mộ thành tuyết? 

( Lý Bạch)

Không tránh khỏi cái lúc ta phải dừng lại ngạc nhiên tự hỏi:

Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy
Ðời chúng ta là mấy trăng tròn

(Mưa Nguồn) 

Và đau khổ chợt thấy:

Ô thiều quang tan biến vội sao mà
(Mưa Nguồn)

Trong dòng sống vô thường ấy, từ vật chất đến linh hồn, thân và tâm, cảnh và người, không lúc nào dừng tru Ðây chính là hành khổ trong giáo lý Phật. Mọi sự tuôn chảy như thác lũ, từ cuộc dâu bể của cảnh vật:

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Ðêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

(Tú Xương)

đến cuộc dâu bể của nội tâm,"không bao giờ ta gặp lại tâm hồn ta chiều nay" (Nous n'aurons jamais plus notre âme de ce soir):

Em ngó buổi chiều buồn có phải
Buồn cũng như buồn những buổi chiều xưa

(Mưa Nguồn)

Tuổi trẻ đi qua không bao giờ trở lại:

Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm . . .
Tóc xanh kỳ hẹn sai ngày
Khóc ngang ngửa mộng canh dài mấy phen

(Mưa Nguồn)

Kỳ hẹn dù có đúng ngày đi nữa cũng thành sai, bởi vì tới đó tóc xanh đã trở màu, và mộng hóa ra ngang ngửa làm cho thi nhân phải khóc:

Màu phương cảo pha mờ trên nét ngọc
Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai

(Mưa Nguồn)

Nẻo mộng cứ sai hoài, là vì "ngày theo tiếng thưong không tiếng gọi", vì thời gian không chờ tuổi trẻ, vì "hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình" và:

Xuân xanh xô cổng chạy dài
Bỏ sương tuyết phủ phượng đài phía sau . . .
Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ
Tự ngàn năm tuôn dạo tự khe rừng

(Mưa Nguồn)

Cuộc đời đã là mộng huyễn, "đất trích chiêm bao" thì cuộc tình cũng chỉ là huyễn mộng, "yêu nhau là hẹn sai giờ ngó nhau". Quả vậy, không thể có tình yêu (theo nghĩa hẹp) khi con người quá tỉnh giác bén nhạy trước cái mong manh hư ảo của cuộc đời, vì vừa nhìn nhau một cái thì "mộng đã bước vào trong mơ": giây phút hiện tại đã là mộng (vì không dừng trú), mà mộng đó đang trôi qua, tiếp tục trôi mãi, rốt lại cuộc đời chỉ là mộng tiếp theo mơ ... Sở dĩ con người mê sắc là vì không thấy đúng như thật, trông gà hóa cuốc, thấy bụi thành ra mây, và vì hẹn sai giờ ngó, nếu ngó đúng thời nghĩa là vào cái lúc hoa tàn nhụy rữa, thì khó mà mê cho nổi:

Nhìn nhau mộng đã bước vào trong mơ
Bụi bay là áng mây mờ
Yêu nhau là hẹn sai giờ ngó nhau

(Mưa Nguồn)

Bên cạnh nổi thống khổ vì tính chất mộng ảo vô thường, còn có nỗi hoại khổ của tử biệt sinh ly, của sự "nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương" vốn là đề tài cho bao thiên trường hận ca bất hủ của loài người kim cổ:

Thiên trường địa cửu hữu thời tận
Thử hận mang mang vô tuyệt kỳ

(Trường hận ca)

Ðó là cái hận khi:

Một tiếng nói một nụ cười chợt tắt
Hết mấy phen buồn trở lại bên đời

(Mưa Nguồn)
Ðó là nỗi khổ của cảnh:

Ðầu mùa trăng rạng tỏ
Hoa bướm vội tan lìa

(Mưa Nguồn)

Và của cảnh:

Em chết bên bờ lúa
Ðể lại trên đường mòn
Một dấu chân bước của
Một bàn chân bé con

(Bờ Lúa)

Trước nỗi đời thê thảm vì tất cả đều tuột khỏi tay ta: tuổi trẻ, hạnh phúc, sắc màu, bóng dáng ... thi nhân phản ứng bằng một cuộc sống vội vàng vì biết rõ:

Một phút nữa thôi
Và màu sẽ mất
Suối sẽ xa đồi
Như mây xa đất

(Màu thiên thanh mở)

Vì biết rõ "Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại, tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu" nên thi nhân yêu đời say đắm:

Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn
Hết tâm hồn và hết cả da xương

(Phụng Hiến)
Nhưng càng yêu đời thì càng thấm thía nỗi khổ của sự chết chóc:

Nhưng em hỡi trần gian ôi ta biết
Sẽ rồi ra vĩnh biệt với ngươi thôi
Ta chết lặng bó tay đầu lắc
Ðài xiêu ôi xuân sắp rụng mất rồi

(Phụng Hiến)

Cái chết rút về số không tất cả mọi nỗ lực của con người\. Nó là vố đấm chí tử cuối cùng của khổ đế, làm cho câu hỏi về bí ẩn của cuộc đời chẳng bao giờ được trả lời thỏa đáng:
Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại Chẳng bao giờ thỏa đáng giữa đời câm Em ngó mãi những chiều về trở lại Mang được gì về trong cõi trăm năm (Chiều) Mang được những gì về, nếu không là cái Không lớn rộng? Cảm thụ sâu xa tính chất vô thường, khổ, không của cuộc đời, thi nhân tìm lối thoát ra khỏi tuyệt vọng. Lối thoát đó trước nhất và cuối cùng đối với họ là nghệ thuật, là thơ\. Khi ti sĩ thở than về nỗi mất mát của tuổi trẻ, hạnh phúc, của chính sự sống, Cuộc Ðời bèn an ủi họ rằng không nên tuyệt vọng:

Em bảo rằng: đừng tuyệt vọng nghe không
Còn trang thơ thắm lại với trời hồng

(Phụng Hiến)

Nghệ thuật và thi ca sẽ có thể diễn đạt tất cả nỗi đau khổ phù du mộng ảo của kiếp nhân sinh. Với thi ca cái đó sẽ thường được làm cho trường cửu, cái chết và nỗi khổ sẽ trở thành bất tự Khổ không còn là khổ khi nó trở thành đối tượng khách quan của nghệ thuật. Muôn đời người ca kỹ bến Tầm Dương vẫn còn đang gảy khúc Tỳ Bà, chiếc áo xanh của quan Tư Mã đất Giang Châu cho đến ngày nay vẫn chưa ráo lê Ngày xưa người chinh phụ bẻ cành liễu tiễn chồng, thì ngày nay sự biệt ly ấy vẫn còn tiếp diễn dù cảnh và người có khác. Cái cảnh đời phù du, hạnh phúc chóng tàn cũng vậy, không bao giờ thay đổi:
Người kỹ nữ ngày xưa trên bến nước Sẽ đi về trong bóng nguyệt quanh năm Và sẽ nhắc với đời em chuyện trước Vòm nguyên tiêu rơi rụng giữa trăng rằm (Về giữa ngọ) Vũ trụ như một sân khấu tái diễn mãi hoài một tấn tuồng, dù diễn viên có thay đổi theo từng thế hệ:
Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không

(Mai sau em về)

Hỏi tức là đã trả lời: không có chi khác lạ, vẫn cảnh phồn hoa phố thị với những cuộc tình ngang ngửa\. Càn khôn vũ trụ ngày xưa là của riên của những "chàng chàng thiếp thiếp" thì bây giờ "đón bước em xinh" của thế hệ kịch sĩ mới tái diễn màn kịch cũ:

Ðây phồn hoa của thị thành
Ðây hồn thu thảo khóc tình ngửa ngang

(Mai sau em về)

Thi nhân chỉ hỏi nhỏ một câu:

Sầu đau nhan sắc bất bình ra sao\? (Mai sau em về) mặc dù đã biết rằng:

Ngày sau chỗ ấy
Mây mù quyến rũ trăng sương
Em về sẽ thấy Mông lung sầu mộng gái buồn

(Gái buồn)

Cảnh hợp tan, tan rồi hợp vẫn tiếp diễn mãi hoài bao lâu còn sự sống, cũng như bốn mùa vẫn luân chuyển bao lâu vũ trụ xoay vần. Ðó là sự Vĩnh Viễn Trở Về của mọi sự:

Ðầu xuân dậy thiết tha vang hưởng của
Tiếng thu trưng trong điệp khúc mai sau

(Về giữa ngọ)
Vì vĩnh viễn trở về, nên ly biệt cũng sẽ là trùng ngộ:

Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân

(Chào nguyên xuân)

Cuộc tồn sinh vốn đã là "đất trích chiêm bao" thì hãy cứ thong dong mà sống và chết, đừng ngại chi cái cảnh lên thác xuống ghềnh:

Thân xương máu đã đành là ủy mị
Thì xin em cùng lên thác xuống ghềnh

(Phụng Hiến)

Ðó cũng chính là lý do khiến Bồ tát không sợ sinh tử- vì sinh tử như huyễn mộng- và có thể dấn thân vào cuộc đời dưới bất cứ hình thức hóa sinh nào:

Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây

(Chào nguyên xuân)
Sở dĩ con người đau khổ là vì không chịu sống giản dị như bông huệ ngoài đồng, như thiên nhiên hay loài vật: Con kiến bé có bao giờ lận đận Lúc đi về trong cổ lục chiêm bao (Trò chuyện) Trong miền "đất trích chiêm bao", không những đau khổ trở về, mà mùa xuân cũng trở về với cây xanh lá, dù tóc xanh có phai màu:

Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trươc miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng

(Chào nguyên xuân)
Mọi sự của cuộc đời sẽ tái diễn điệp khúc y hệt: vô thường, khổ, không... cũng như "chim vẫn cứ bay quanh từ vạn kỷ" Trực nhận được lẽ đó thì không còn thác loạn điêu đứng vì nỗi dâu biển trong cuộc tồn sinh. Hãy để cho cơn buồn bay qua như giấc mộng, như bóng chiều, bởi lẽ tất cả đều là mộng huyễn, và giấc mộng cuối cùng cũng như giấc mộng nguyên sơ không khác gì cả:

Tuổi thơ em có buồn chiều
Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua
Bể dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

(Áo xanh)
Kỳ thực ta có mất mát gì đâu, vì tuyệt đối ta không có gì để mất. Ta thường đau khổ vì cái Không, mà không biết nó chính là quê hương của ta, nghĩa là của một cái Không vốn tịch mịch từ vạn kỵ Không trở về Không là sự trở về sơ nguyên mộng, là sực tỉnh từ cơn trường mộng dâu bể đa đoan:

Tôi thấy người mừng rỡ xiết bao
Trời xanh hơn lá ở trên cao
Con chim nhảy nhót bên cành nhánh
Người nắm tay tôi rủ bước vào

(Người về)

Người là ai thể Phải chăng đó là bản lai diện mục của ta, là hồn sơ nguyên mộng, là cái Ta bất khả hủy diệt có trước cả đất trời, vượt ngoài tất cả trần gian khổ lụy, là nơi trú ẩn vững chắc nhất: "Ngươi hãy là một hòn đảo cho chính ngươi" (Kinh Pháp cú). Thấy được Người, thì vạn vật bỗng trở nên mới mẻ, trời thêm xanh, chim chóc cũng vui mừng nhảy nhót. Người rủ ta bước và thế giới của Người, nghĩa là thế giới của Không tịch, của Pháp giới tánh bát ngát nguyên vẹn như rừng xanh:
Ngôi nhà người dựng giữa rừng xanh
Cửa gió bằng cây có nhánh cành
Ðể khép sơ sơ và cũng để
Mở mời anh chị bước vào nhanh

(Người về)

Người, cái Ta nguyên vẹn vô thủy vô chung, vốn rất gần ta mà ta không hay không biết, cũng như Niết bàn vẫn ở khắp nơi mà ta không hề gặp được. Rừng xanh đâytượng trưng cho cái Tâm hồn nhiên tươi sáng của thuở "tình chưa biến động" chưa đau khổ vì cuộc bể dâu\. Nó vừa ở trong gang tấc mà cũng vừa cách mấy trùng quan san, do nghiệp lực của ta nhìn thấy\. Ta có thể bước vào nhanh trong rừng đó nếu muốn. Rừng ấy vốn là quê hương của ta, nhưng vì mãi theo đuổi những sắc màu huyễn hoặc, ta quên mất đường về, đến nỗi khi chợt về lại trong rừng, thì ta ngỡ mình đã đi lạc vào một nơi xa lạ:

Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng
Lạc mất đường về chợt bỗng dưng
Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng

(Người về)

Ngôi rừng, cõi Không, cõi Hoang sơ bát ngát vốn là quê hương ta, mà ta lại sợ hãi, vì từ vô lượng kiếp, ta đã bỏ nó để đi tìm những cái Có không ra gì, những cái Có đau khổ phù du\. Ðến khi gặp lại nó thì ta lại tưởng mình đi lạc, đâu ngờ rằng ta đi lạc đã từ lâu, nay mới đúng lúc gặp đường vệ Do "bối giác hiệp trần" (quay lưng với giác ngộ mà chạy theo cát bụi), ta đã nhận giả làm thật, đến nỗi khi gặp cái thật- cái Không bao la, hồn Ộsơ nguyên mộngỢ- thì ta lại sợ hãi chạy trốn. Ðó phải chăng là nguồn gốc mọi khổ đau của con người, nhất là của thi nhân, những người có cảm thụ bén nhạy nhất trước những sắc màu âm thanh hình ảnh giả dối của trần gian vũ tru

Thích Nữ Trí Hải

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét