DỪNG và THIỀN

Người sáng lập ra Thiền, định nghĩa nó trong một từ : DỪNG.
Câu đầy đủ là:
Tâm trí điên khùng không dừng.
Nếu nó Dừng, đó là Thiền.
Những lời sau đây chỉ có tính gợi mở:
Hít vào, thở ra là Thiền,
Vợ chồng hài hòa là Thiền,
Ngồi nán lại ngắm con ngủ là Thiền,
Vợ chồng thương nhau đứt ruột, có lỗi mà "giả đò ngó lơ" cũng là Thiền,
Thiền không là gì cả, nhưng là vòng xoáy trôn ốc xoay quanh trục rỗng vô tận.

Như vậy trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đã "Thiền" mà không biết.
Ví dụ, khi bạn bị hiểu lầm, hay nhận "những lời cay đắng" từ người thân, mà bạn kềm chế cơn giận bằng hơi thở, là bạn đã Thiền.
Nếu bạn đã trải qua những phút căng thẳng mà bạn vẫn giữ được lòng thanh thản, chắc hẳn bạn cũng biết rằng mối quan hệ của bạn với người đó không hề xấu đi, mà qua cơn giận dỗi cả 2 cùng hiểu nhau hơn, thì bạn đã biết DỪNG tâm trí điên khùng khi nó sắp bộc phát.
Bạn chỉ cần sống trong vui vẻ, đó là Thiền. Sống trong bản tính bên trong riêng nhất, và hãy là bản thân mình, bản tính đích thực.
Và người sống trong vui vẻ thì sống một cách tự nhiên trong tình yêu. Hãy sống trong vui vẻ, trong tình yêu, ngay cả giữa những người ghét.

Và khi có người hỏi Thiền là gì? Thiền Sư Viên Minh dạy rằng:
- Thiền không chú trọng ở tư thế ngồi mà ở tâm thiền. Tâm thiền đúng thì đi, đứng, ngồi, nằm hay nhất cử nhất động gì cũng đều là thiền được cả.
- Thiền không xem trọng đối tượng, khi tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì mọi đối tượng đều là đối tượng của thiền. Dù không có đối tượng thì tâm thiền vẫn tĩnh lặng trong sáng.
- Thiền thật sự thì không cần phương pháp. Phương pháp chỉ làm trở ngại thiền. 
- Thiền soi sáng thực tại tự nhiên ngay đây và bây giờ với tánh biết rỗng lặng trong sáng.
- Thiền không phải để đạt đến một kết quả mong đợi, vì thiền không phải tạo tác để trở thành điều gì. Mục tiêu của thiền nằm ngay nơi chính thái độ thiền.
- Thiền không phải là nỗ lực rèn luyện để cầu toàn mà là thấy ra tính toàn bích ngay nơi sự bất toàn của đời sống.Vậy hãy mở toang cánh cửa tâm để nhìn thấy sự thật ở mọi lúc mọi nơi, đừng mải mê tìm kiếm cái lý tưởng do tâm tạo tác.
- Thiền không phải là chủ nghĩa hiện sinh mà trong Kinh Brahmājāla đức Phật xếp vào một trong 62 tà kiến gọi là “hiện tại lạc luận”, chỉ biết sống hưởng thụ dục lạc trong hiện tại để thỏa mãn thị hiếu của cái ta ảo tưởng.
- Thiền không phải là thực hiện một quan điểm theo tư kiến của mình hay của ai khác, vì mọi quan điểm đều là tục đế, không phải là thực tánh vô ngôn mà thiền thể nghiệm.
- Thiền là vượt qua mọi ảo vọng, trở về trọn vẹn với chính mình trong cô đơn tuyệt đối để giáp mặt với thực tại và thấy ra trong đó nhân duyên của tất cả nỗi khổ niềm vui, những ưu tư sầu muộn, đồng thời thấy ra sự tịch lặng vô sanh.
- Thiền là tánh biết thấy pháp vận hành như nó là chứ không phải như cái ta lý trí nghĩ là, do đó Phật dạy: “Nội tâm thanh tịnh thì thấy các pháp đều thanh tịnh”
- Thiền là thái độ nhận thức đúng bản chất của đời sống, chứ không phải để đạt được điều như ý. Khi cái ta muốn đạt được điều như ý thì ngay đó đã bất như ý rồi.
- Thiền không mô phỏng theo cái đúng đã được quy định thành mẫu mực, mà phát hiện từ cái sai để điều chỉnh nhận thức và hành vi chân thiện mỹ.
- Thiền là thấy ra hai mặt của cuộc sống: thành và bại, được và mất, hơn và thua, vui và khổ, thiện và ác, đúng và sai v.v... mà tâm vẫn rỗng lặng, hồn nhiên, trong sáng, chứ không phải là thái độ nhị nguyên chọn lựa cái mình yêu thích, vừa lòng hay thỏa mãn. Nếu con sống thuận pháp thì tất nhiên con cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc nhưng đó không phải là mục đích của thiền.
- Thiền là thắp sáng thực tại để không bị mê mờ, quờ quạng hay chìm đắm trong bóng tối của tà kiến và tham ái.
- Thiền không tách rời cũng không đồng hóa với bất cứ trạng thái nào dù là thiên đàng, cực lạc hay địa ngục, mà là thái độ sáng suốt, định tĩnh, trong lành có thể ung dung tự tại trong bất cứ trạng thái nào.
- Thiền không đặt ra điều kiện để thỏa hiệp, dù thỏa hiệp với ai hay thỏa hiệp với điều kiện của chính mình. Lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào thì không còn là thiền, là hạnh phúc, là tình yêu nữa.
- Thiền là mở toang tâm hồn để không còn chỗ nào để bám trụ. Còn chỗ để bám trụ thì vẫn còn bản ngã, thời gian và đau khổ.
- Thiền là thái độ hành động tích cực thuận theo nguyên lý của đời sống, nhưng không rèn luyện, tạo tác, loại bỏ, hay lưu giữ điều gì, vì thiền thấy ra tánh không (suññatā) của vạn pháp. Khi đã rơi vào hữu ý, hữu tất, hữu cố, hữu ngã (có ý đồ thì phải có điều kiện, có chấp thủ và có cái ta ảo tưởng) trong tiến trình trở thành (bhava: hữu) của luân hồi sinh tử .
- Thiền là sống tùy duyên thuận Pháp, vô ngã vị tha, mà các thiền sư gọi là “Nhập lâm bất đạp thảo, nhập thủy bất động ba” nên chỉ sống lợi lạc cho đời mà không làm tổn hại đến ai .
- Thiền nói hoài không hết nhưng không nói thì thiền vẫn là thiền.

ST