Tản mạn từ chuyện sát sinh
Sự vĩ đại và sự tiến bộ về đạo đức của một quốc gia được đánh giá qua cách thức mà quốc gia đó đối xử với loài vật.
Thánh Gandhi
The greatness of a nation and its moral progress can be judged by the way its animals are treated [1]
Những năm gần đây, dù không trẩy hội chùa Hương, chỉ cần xem truyền hình và đọc báo về “lễ hội truyền thống” này, chúng ta không khỏi kinh hãi trước cảnh tượng những con vật bị moi gan, mổ bụng, róc xương… treo lủng lẳng trên móc sắt được bày bán la liệt từ bến đò Yến Vĩ đến tận chân chùa Thiên Trù. Một cảnh tượng không chỉ gây phản cảm về thẩm mỹ, mà còn đặt ra những câu hỏi nhức nhối về văn hóa. Điều lạ lùng là nhiều “khách hành hương” vẫn có thể thản nhiên chè chén một cách vui vẻ giữa cảnh tượng đáng rùng mình đó trên đường đi lễ Phật!
Trong thời buổi hiện nay, trên thế giới có lẽ hiếm có quốc gia nào có thể ngang nhiên trưng bày những cảnh tượng hãi hùng đó để chào mời khách hàng, như ở Việt Nam. Trong khi các quốc gia phương Tây ra sức bảo vệ thiên nhiên, chăm sóc cho từng con vật, kể cả những loài bị xem là sát thủ của loài người như hùm, beo, cá sấu, rắn độc v.v. thì chúng ta lại tỏ ra hả hê, thậm chí hãnh diện với chuyện chè chén những món “độc” như thú rừng quý hiếm. Ăn được thịt của những loại thú lạ và quý hiếm cũng là cách để khẳng định “đẳng cấp”(?) của những trọc phú thừa tiền lắm của trong xã hội quái dị của chúng ta hiện nay. Nếu khách trẩy hội đến với chùa Hương bằng cả tấm lòng chân thành mộ đạo thì không thể không đau xót khi chứng kiến cảnh tượng phơi bày xác thú vật một cách man rợ trông chẳng khác gì lò sát sinh trong địa ngục kia, vì đàng sau cảnh tượng đó là viễn tượng của một xã hội đang băng hoại về đạo đức và suy đồi về tâm linh.
Sống mãi trong môi trường đó, tâm thức con người chắc chắn sẽ bị tập nhiễm, lâu ngày sẽ trở nên trơ lỳ vô cảm. Chỉ những ai có đời sống tâm linh trong trạng thái còn thấp kém mới có thể cảm thấy hả hê khi tàn sát loài thú vô tội, vì những người đó cũng sẽ dửng dưng vô cảm trước sự khổ đau và cái chết của chính đồng loại mình. Mạnh Tử khuyên người quân tử nên xa lánh nhà bếp[2], vì tránh tiếp xúc với cảnh giết chóc các loài cầm thú ngay trong nhà bếp cũng là phương tiện để nuôi dưỡng thiện tâm. Khi thiện tâm không có môi trường để sinh khởi thì nó sẽ trở nên khô cằn, và con người dễ dàng trở nên tàn ác. Thực trạng đạo đức của xã hội hiện nay đang minh chứng cho điều ấy. Câu nói của thánh Gandhi như vang vọng ngay tận trái tim văn hóa đang băng hoại của đất nước chúng ta.
Nền tảng thực sự cho sự phát triển của một xã hội không phải là bề mặt nổi của những công trình công cộng, mà là văn hóa. Khi Thiên Nhiên nổi giận, chỉ cần một cơn địa chấn hay một đợt sóng thần là tất cả những gì con người khổ công gầy dựng hàng nhiều thế kỷ có thể bị quét sạch đi một cách dễ dàng trong nháy mắt. Thế giới ngày nay đã cho ta thấy quá nhiều sự kiện nhãn tiền. Động đất ở Tứ Xuyên, sóng thần ở Nhật v.v. Cái gì sẽ còn lại sau những đổ nát tan hoang đó, những đổ nát khó lòng tránh khỏi giữa một cõi thế quá đỗi vô thường với muôn vạn thiên tai? Chính văn hóa, và chỉ có văn hóa, mới là nền tảng thực sự để giúp một đất nước trường tồn, có thể quật khởi sau những giai đoạn suy vi. Một đất nước dù giàu có, phồn thịnh đến mấy mà khi văn hóa đã đổ nát thì chắc chắn sẽ đi đến diệt vong về mặt tinh thần. Đó là quy luật lịch sử. Văn hóa là hồn nước, khi hồn nước đã tan thì toàn bộ đất nước chỉ còn là cái xác vô hồn. Chỉ có văn hóa mới giúp chúng ta kiến tạo được một đất nước vững bền. Suốt một ngàn năm chịu sự đô hộ của Trung Quốc, người Việt – dầu chỉ ít ỏi như một dân tộc thiểu số – vẫn bất khuất ngẩng cao đầu không chịu bị đồng hóa trước mọi kẻ thù phương Bắc, để phục quốc xưng vương, và giành lại nền tự chủ. Đó là sức mạnh của văn hóa.
Đời sống văn hóa không phải được đánh giá qua những phong trào hay những câu khẩu hiệu khoa trương dán đầy từ trong hẻm ra ngoài phố, mà nó ẩn tàng trong sinh hoạt và ứng xử hằng ngày. Cảnh tượng giết thú man rợ ngay bên cạnh nơi thờ phụng thiêng liêng để “phục vụ” khách hành hương cho thấy mặt bằng văn hóa nước ta đã sa xuống quá thấp, nếu không muốn nói là đang băng hoại. Tại sao con đường dẫn đến cửa Phật từ bi lại phải đi qua xác của biết bao sinh linh vô tội?
Vào tháng 6 năm 2011, chính phủ Úc đã từng ra lệnh cấm xuất khẩu bò sang Indonesia, thị trường nhập khẩu gia súc lớn nhất của nước này, sau khi hãng truyền thông quốc gia Úc (ABC) truyền hình cảnh động vật bị giết mổ dã man tại Indonesia, tạo ra làn sóng phản ứng dữ dội trong dư luận[3]. Đó mới chính là đỉnh cao văn hóa của đất nước loài chuột túi. Tôi rất xúc động khi đọc tin này vì hồi còn nhỏ, nhà tôi ở gần một lò mổ bò, tôi nhiều lần thấy những con bò đứng trì dây kéo không chịu bước đi với đôi mắt ướt đẫm, khi bị dẫn đến lò mổ. Chúng cảm nhận được sự hãi hùng với cái chết cận kề. Cảnh tượng trông rất thương tâm.
Nhà văn Thoreau, sau nhiều năm sống ở trong rừng một cách thân thiện với loài vật, đã quan sát thấy con thỏ khi bị dồn đến bước đường cùng cũng kêu khóc như một đứa bé[4]. Một chi tiết rất nhỏ, nhưng nếu cảm nhận được, thì khi đưa một miếng thịt thỏ lên miệng hẳn ta sẽ thấy đắng cả lòng.
Khi đời sống văn hóa và tâm linh càng phát triển thì con người càng muốn xa lánh chuyện sát sinh. Đó cũng là cách biểu hiện lòng tôn trọng đối với tất cả các loài hàm thức. Phật giáo khuyến khích ăn chay là một cách để giúp tín đồ thể hiện hạnh nguyện ấy. Ăn chay còn có một hàm ý sâu xa khác, vì ăn chay là dùng toàn thảo mộc. Khác với loài vật khi bị giết là chết hẳn, các loài thảo mộc sau khi bị đốn, chặt vẫn có thể tiếp tục đâm chồi nẩy lộc để tái sinh. Cho nên ăn chay, bên cạnh việc hạn chế sát sinh để tu dưỡng thiện tâm, còn có nghĩa là tiếp nhận được nguồn năng lượng tái sinh đó.
Ở Tây Tạng, người ta quan niệm rằng những người ăn thịt cá chỉ nhằm thỏa mãn sự đói khát, mà không hề suy ngẫm về hành động của mình và hậu quả về sau thì nên ăn chay; vì những tố chất thú vật mà người ăn hấp thu vào cơ thể có thể làm tăng thêm thú tính của họ. Nhưng vẫn có rất nhiều tu sĩ lạt-ma không ăn chay với lập luận rằng: khi họ ăn thịt và tiêu hóa thịt thú vật thì đồng thời họ cũng tiêu hóa những tố chất tâm linh khác được kết hợp trong đó, và họ có thể chuyển hóa được thực phẩm đó trở thành nguồn năng lực tinh thần và tâm linh để con vật được tái sinh trong cõi người.
Đối với chúng ta thì điều đó quá cao xa và bất khả tư nghì. Chúng ta chỉ cần biết ăn chay là phương tiện trì giới để tu dưỡng thiện tâm. Khi chưa có điều kiện để ăn chay thường xuyên thì chúng ta nên hạn chế việc sát sinh. Ăn chay hay hạn chế sát sinh có tạo được phước hay không, tôi cho rằng điều đó không quan trọng, vì khi ăn chay hay giới sát mà ta cảm nhận được sự bình yên trong tâm thì đó mới thực sự là phước. Cũng như khi ta làm được một việc thiện thì tự nhiên thấy trong lòng hân hoan vui sướng, đó mới chính là “ thiện báo”. Phật tại tâm, mà tâm an lạc tức là đã được Phật ban phước lành, sao lại phải trông đợi ở đâu xa?
Huỳnh Ngọc Chiến
[1]http://thinkexist.com/quotation/the_greatness_of_a_nation_and_its_moral_progress/189870.html[2] Quân tử viễn bào trù (Mạnh Tử, Lượng Huệ Vương thượng)
[3] http://tamnhin.net/Print/11658/Australia-ngung-xuat-khau-gia-suc-sang-Indonesia-Loi-bat-cap-hai-.html
[4] The hare in its extremity cries like a child. (Thoreau, Walden, Rinehart & Winston Inc., 1961, tr. 165)