Lý giải khoa học về sự đầu thai chuyển kiếp


Có những đứa trẻ sinh ra không nhận cha mẹ mình hiện tại, chỉ nhận cha mẹ mình trong kiếp trước. Có nhiều trẻ nhỏ mới sinh ra đã là thần đồng âm nhạc, văn, toán học... và người ta cho rằng đó là do các siêu linh về các lĩnh vực này đầu thai vào... Thực tế có đúng như vậy và khoa học lý giải gì về các hiện tượng này?

Chết là hết hay sự sống vẫn tiếp diễn

Năm 2010 xôn xao câu chuyện kỳ lạ của cháu Nguyễn Phú Quyết Tiến ở Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, Hoà Bình. Theo đó, cháu tên là Bình sinh ngày 6/10/2002 con của anh Hoan, chị Dự nhưng cháu cứ nằng nặc nhận mình là cháu Quyết Tiến (con chị Thuận anh Tân) - đứa trẻ đã chết cách đây hơn mười năm và đòi về ở với bố mẹ người đã chết. Sau khi đưa ra nhiều "bằng chứng" chứng tỏ mình là cháu bé đã chết, cháu Bình đã được nhận về nuôi như một sự sống lại của linh hồn đã chết trước đó.
TS Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng - UIA cho biết, trong 20 năm qua ông đã cùng nhiều giáo sư đầu ngành nghiên cứu và ghi nhận nhiều trường hợp tương tự như câu chuyện trên. Thậm chí, trên thế giới cũng có nhiều trường hợp trùng lặp đến kỳ lạ như vậy. Đơn cử một cặp trùng lặp rất thú vị giữa Napoléon và Hitle: Chẳng hạn, Napoléon sinh năm 1760, Hitle sinh năm 1889 chênh nhau 129 năm. Đặc biệt, rất nhiều sự kiện trùng và chênh nhau đúng 129 năm như: Napoléon nắm quyền năm 1804, Hitle năm 1933 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Viên (Áo) năm 1809, Hitle năm 1938 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Nga năm 1912, Hitle chiếm Nga 1941; Napoléon thua Nga 1816, Hitle thua Liên Xô 1945. Napoléon và Hitle đều nắm quyền binh năm 44 tuổi, đánh chiếm Viên năm 49 tuổi, đánh chiếm Nga năm 52 tuổi và đều vỡ mộng bá chủ ở tuổi 56...
TS Vũ Thế Khanh nhấn mạnh, theo thống kê, những cặp có sự tương đồng (về sự kiện trong cuộc đời, về tính cách, về tài năng...) nhiều không sao kể hết, và sự trùng lặp cũng rất đa dạng. Từ xa xưa, con người cũng đã biết và đã bàn luận nhiều về hiện tượng này. Người ta giải thích rằng, khi con người chết đi, Diêm Vương sẽ mở sổ ghi chép đánh giá công, tội để cho đi tái sinh vào các cõi khác nhau.
Quy trình tái sinh được mô tả như trong truyền thuyết về Cầu Nại Hà. Theo đó, nơi cõi Âm phủ có một cây cầu rất mỏng manh, khó đi, gọi là cầu Nại Hà, bắc ngang một con sông lớn gọi là sông truyền kiếp. Dưới sông lớn có đủ các thứ rắn độc, thủy quái hung dữ, đợi người nào lọt xuống thì chúng xúm lại xé thây ăn thịt. Các linh hồn muốn lên cầu qua sông, nhìn thấy cảnh tượng như thế thì nản lòng thối bước, không biết làm thế nào để đi qua cầu cho được an toàn.
Có tất cả là sáu loại cầu Nại Hà làm bằng 6 loại vật liệu khác nhau, tương ứng với Lục đạo luân hồi. Các linh hồn sau khi thẩm định phước phần, sẽ cho đi Đầu thai vào các nơi tương ứng theo nghiệp báo (nam hay nữ, giàu hay nghèo, sang hay hèn, khôn hay ngu, thọ hay yểu...). Việc đi tái sinh không chỉ ở cõi người (thai sinh), mà còn có 5 loài: Noãn, thai, thấp, hóa, và bàng sinh. Hình dạng có: Loài không chân, hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân. Có loài thì tự chết, có loài thì bị giết chết...".
Để giải thích hiện tượng tái sinh, trên thế giới đã có hàng trăm ấn phẩm nói về lĩnh vực này như bí ẩn tiền kiếp hậu kiếp, luân hồi, nhân quả, sự sống sau khi chết, tử thư, chết đi về đâu, Tây Tạng huyền bí, Ai cập huyền bí, Xứ Phật huyền bí, nghiệp báo, Địa ngục du ký, Liêu Trai, Lạt Ma Tây Tạng, Cao Tăng dị truyện, Kinh Pháp Cú, Các hiện tượng tái sinh, soi kiếp của Kaysi...
Phật Giáo đã nói rõ về sự tương quan giữa quá khứ, hiện tại và tương lai trên một trục thời gian vô tận (vô thủy vô chung) theo quy luật Nhân Quả - Luân hồi (luân là quay, hồi là trở lại). Hiện tượng tái sinh cũng chỉ là một trong các hiện tượng nằm trong quy luật của Luân hồi mà thôi.

Lộn kiếp truyền lại những tài năng bẩm sinh

GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, nguyên Viện trưởng Viện Văcxin, tác giả cuốn sách "Loài người từ đâu về đâu" cho biết, từ xa xưa đã tồn tại học thuyết về sự luân hồi với nội dung là có người sống nhiều hơn 1 kiếp trên đời. Sau khi chết linh hồn người ấy đầu thai lại trên đời và sống kiếp khác. Có thể đầu thai vào người mẹ trước của mình, cũng có thể đầu thai vào một người đàn bà khác. Chẳng hạn, có một thiếu niên sinh ra ở Los Angeles (Mỹ) năm 1965. Tháng 8/1971, cha mẹ phát hiện ra cậu bé 6 tuổi có khả năng chơi đàn piano tuyệt vời, mặc dù cháu chưa bao giờ được học chơi piano. Các chuyên gia âm nhạc trong vùng xác định rằng những bản nhạc cậu chơi thường là các khúc nhạc Jazz độc đáo của nhà dương cầm nổi tiếng đã mất năm 1954.
Đầu thế kỷ XX, một cô gái Anh tên là Romary bỗng nhiên biết tiếng Ai Cập cổ đã bị thất truyền lâu rồi. Romary tự xưng là người Xyri vào năm 1400 trước công nguyên bị bắt đến Ai Cập làm nô lệ và làm vũ nữ trong cung điện thờ thần Ai Cập. Nhưng ít ai tin lời Romary. May nhờ một nhà bác học Ai Cập biết tiếng Ai Cập cổ xác nhận thì người ta mới tin câu chuyện của cô là có thật.
GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu nhấn mạnh, có nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về chuyển kiếp và luân hồi. TS Stephenson thuộc trường Đại học Louisana (Mỹ) khi nghiên cứu về vấn đề này cho rằng, khắp nơi trên thế giới có những trường hợp lộn kiếp thường xảy ra khi trẻ mới lên 3 - 5 tuổi. Chúng bắt đầu kể về cuộc sống kiếp trước của mình làm cha mẹ và người thân rất hoang mang, trừ ở Ấn Độ, nơi mà luật Luân hồi được nhiều người biết đến và người ta phản ứng rất bình tĩnh trong gia đình có một đứa bé lộn kiếp. Tuy nhiên, từ 7 - 8 tuổi trở lên đứa trẻ bắt đầu quên những ký ức về kiếp trước cho đến khi quên hẳn, nhưng cũng có trường hợp ký ức về kiếp trước còn tồn tại lâu dài. Chẳng hạn như trong cuốn tự tuyện "Tây Tạng - tổ quốc của tôi" Đạt - lai - lạt - ma đời thứ 14 đã kể tường tận sự đầu thai chuyển kiếp của mình.
GS.TS Ian Pretyman Stevenson là bác sĩ tâm thần học rất nổi tiếng, giảng dạy tại Đại học Virginia (Mỹ) đã đã cống hiến cả đời mình để nghiên cứu sự Luân hồi. Trong suốt hơn 40 năm, trung bình mỗi năm ông đã đi một đoạn đường 89.000 cây số vòng quanh Trái đất để khảo sát các trường hợp nghi vấn Luân hồi. Tổng cộng ông đã ghi nhận trên 3.000 trường hợp Luân hồi tái sinh từ khắp nơi trên thế giới, và trình bày các bằng chứng đó một cách hệ thống, khoa học và hết sức chi tiết. Trong mỗi trường hợp, ông ghi chép lại một cách hệ thống các lời nói và hành vi của đứa trẻ. Sau đó ông cố gắng xác định người đã chết theo những gì mà đứa trẻ nhớ được và kiểm tra các sự việc từng xảy ra đối với người quá cố, để xác minh xem chúng có phù hợp với trí nhớ của đứa trẻ hay không...
Theo GS.TSKH Đoàn Xuân Mượu, hiện tượng chuyển kiếp thuộc lĩnh vực tâm linh đã được thừa nhận bởi "Phật giáo" trong luật "Luân hồi" 500 năm TCN và các nhà khoa học tâm linh phương Tây đề ra cũng giống với phương pháp chọn Đạt - lai - lạt - ma ở Tây Tạng gồm 3 điều kiện: Có những ký ức về kiếp trước của người đã chết; người chuyển kiếp có những đặc trưng về khả năng kỹ thuật và các kỹ năng của người chết khi còn sống; và những đặc điểm trên thân thể của người chết khi còn sống.

Nhiều duyên phận nên khó quên

Giải thích tại sao nhiều đứa trẻ sinh ra không nhận cha mẹ mình mà công nhận cha mẹ khác ở nơi khác và khi đi tìm hiểu thì đúng như vậy như trường hợp của cháu Quyết ở Thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, Hoà Bình... BS Nguyễn Văn Thắng, Trưởng khoa Giải phẫu bệnh, Bệnh viện Thanh Nhàn cho biết, đây thực sự là sự đầu thai trở lại dương thế theo tư tưởng của nó, khi còn ở cõi trung giới mang thân ngũ ấm (cõi trung giới thực chất là cõi tư tưởng).
Nguyên nhân là do những đứa trẻ này có đời sống lâu bền và có duyên phận nhiều với cha mẹ cũ chưa được thực hiện. Cho nên, trong tàng thức (nơi trú ngụ của linh hồn) của đứa trẻ vẫn in đậm nét những thông điệp trong tàng thức của cha mẹ nó. Khi trẻ được đầu thai để sinh ra trong kiếp sống mới, thì cha mẹ mới chưa có gì lưu lại trong tàng thức của trẻ nên họ không có gì để lưu luyến. Họ chỉ mượn xác thân mới, thông qua tinh cha + huyết mẹ + thần thức của họ để thể hiện trên cuộc đời. Vì vậy, khi sinh ra đứa trẻ này vẫn tư duy cũ, thường có ý tưởng hành trình đi tìm cha mẹ cũ mà mọi mật mã thông tin đều được lập trình và lưu giữ trong tàng thức của họ.
Những đứa trẻ này khi chết với bất kỳ nguyên nhân nào thì nó vẫn giữ nguyên bản ngã cũ không hề thay đổi, nó chỉ mượn xác thân mới để thể hiện những ý tưởng của nó còn dang dở với cha mẹ cũ nói riêng và với cuộc đời nói chung. Trong những trường hợp này cha mẹ mới cũng không nên thất vọng mà giành giật cho riêng mình. Ngược lại nên phối hợp với cha mẹ cũ (nếu còn sống) để đứa trẻ được sống trong ngôi nhà chung và tình yêu thương của cha mẹ cũ, cũng như cha mẹ mới. Có như vậy đứa trẻ mới có được cuộc sống an lạc để duy trì bổn phận của mình với hai bên để hoàn thiện lý tưởng của mình trong kiếp sống cũ và đời sống mới. Về khía cạnh khoa học cũng như về tâm linh đều là sự tiến hóa chung của riêng đứa trẻ và của nhân loại để dần hoàn thiện mình và để đi đến chân lý tuyệt đối.

Ăn “cháo lú” hay nghiệp báo duyên phận?

TS Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng - UIA cho biết, đa phần chúng ta không nhớ rõ kiếp trước mình là ai, trừ các bậc tu hành đạt tới cảnh giới cao minh. Người xưa, giải thích hiện tượng "quên kiếp trước" như sau: Người ta khi chết đi phải qua cây cầu Nại Hà để tái sinh. Tại đầu cầu này có quán ăn, ai đi qua đó cũng được đãi ăn bát cháo.
Cháo này gọi là cháo lú. Công dụng chính của cháo lú là để linh hồn người chết quên hết những gì về quá khứ của đời mình để dễ dàng cho việc đầu thai sau này. Vì nếu không thì những linh hồn ấy vẫn còn mang nặng những nhớ thương tiếc nuối về cảnh cũ, người xưa, tình ruột thịt, máu mủ giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái khiến lúc tái sinh luân hồi, họ lại tìm đến những gì liên hệ với tiền kiếp. Điều đó làm khó khăn trở ngại cho sự trả quả trong lần đầu thai tái sinh này và cả những lần chuyển sinh khác nữa. Nói tóm lại giống như là họ bị "tẩy não".
Theo cách giải thích của người xưa, cũng có những linh hồn tái sinh vẫn chưa "lú" hết, vẫn còn nhớ về kiếp trước, giống như khi "chuyển công tác" thì vẫn nhớ về "cơ quan cũ" vậy. Điều này ví như: ăn ít, hoặc vì lý do nào đó "chưa kịp ăn" cháo Lú nên người đó vẫn có thể nhớ về kiếp trước của minh. Đấy là sự giải thích theo kiểu "tín ngưỡng dân gian".
Còn theo đạo Phật, "sự quên" này do vô minh che khuất (giống như nước bị vẩn đục hoặc bị sôi, hoặc bị sóng dao động...) nên không nhìn thấy được nghiệp quả của quá khứ. Khi đủ duyên, đạt tới trạng thái tĩnh lặng và thanh tịnh thì nước lại trong suốt và ta lại có thể nhìn thấy sự kiện xảy ra trong kiếp quá khứ. Khi đã thấy suốt được quy luật của Nhân Quả - Luân hồi thì mọi sự sinh ra đều do Duyên hình thành, không có điều gì nằm ngoài sự điều khiển của quy luật Nhân - Duyên - Quả. Tuy nhiên, cho dù "cháo lú" có tác dụng hay không, thì "sự ảnh hưởng" của Nghiệp báo từ quá khứ vẫn còn tác động đến tương lai. Sự ảnh hưởng này thường được diễn tả bằng các thuật ngữ như thần đồng, siêu nhân, năng khiếu bẩm sinh, hoặc yếu tố di truyền...
Theo TS Vũ Thế Khanh, người Việt Nam từ xa xưa đã tin vào hiện tượng tái sinh (còn gọi là lộn kiếp). Khi gặp các trường hợp hữu sinh vô dưỡng nhiều lần, họ không muốn những đứa trẻ yểu tử ấy cứ 'lộn kiếp" vào nhà mình nữa nên thường đổ chàm vào mặt để "đuổi đi" hoặc đánh dấu các vết son xem sau này sẽ tái sinh về đâu.
Người Trung Quốc từ xa xưa cũng tin vào sự tái sinh: Chính Võ Tắc Thiên sinh ra cũng có "vết son" tại đúng vị trí tương tự như trên thi thể của một cung nữ bị giết mà Đường Cao Tông (Lý Trị) đã đánh dấu, ngày mà Võ Tắc thiên được sinh ra cũng trùng với ngày mà cung nữ bị giết, do vậy Võ Tắc Thiên được thiên vị ngay từ khi mới vào cung.

Thần thức là kho lưu trữ ký ức

ThS Vũ Đức Huynh, tác giả cuốn sách "loài người với tri thức tâm linh" cho biết, các trường hợp đầu thai đều được nhận ra nhờ tự khẳng định phần nào ký ức của kiếp trước với các người có quan hệ như bố mẹ nhà cũ và mới, các người có quen biết từ kiếp trước, các người có quan hệ với kiếp trước...
Cơ sở khoa học của vấn đề này là do trong Thần thức của phần hồn của con người là kho lưu trữ các loại ký ức của suốt kiếp người khi sống ở cõi trần. Khi hết hạn mức sống ở cõi trần hay bị chết ngoại lệ do các kiểu, phần hồn tàng chứa ký ức được mang theo về cõi vong. Song do hai lần trải qua quá trình chuyển dạng thức sang vong hồn và lại từ dạng thức vong hồn trở lại dạng thức người, các ký ức sâu đậm mất dần trong thần thức.
Phần còn lại là những ký ức sâu sắc nhất còn tàng trữ trong thần thức của phần hồn hậu thân. Những ký ức này phải chờ đến khi phần xác của hậu thân phát triển các chức năng: nói, diễn đạt lưu loát của cơ quan phát âm thì các ký ức về sinh hoạt, về các kỹ năng cũ, về tình cảm cũ... mới được thể hiện hoặc tự khẳng định (phải ít nhất từ 26 tháng trở lên).
Các ký ức tàng chứa ở thần thức của phần hồn sẽ mang sang thần thức ấy ở vong hồn. Quá trình ở vong hồn, các ký ức phai nhạt dần qua từng giai đoạn ở các tầng của Trung giới và Thượng giới. Ở Thượng giới các ký ức ở kiếp người hầu như hết sạch. Bởi vì tất cả các siêu linh còn sót lại (tức không bị phá tan trong quá trình chuyển dạng và tồn tại ở cõi vong hồn) sẽ phải quay vòng trở lại kiếp khởi đầu - kiếp người ở cõi trần với một thần thức hết sạch các ký ức dục vọng, họ giống hệt các hợp tổ ban đầu hình thành các sinh linh mới và khác các trường hợp của các loại vong hồn đi đầu thai hoặc được đầu thai tình cờ may mắn.

"Việc tái sinh thể hiện rất đa dạng, muôn màu muôn vẻ. Có những người sinh ra, hình dáng bề ngoài có những nét mang dấu tích của loài vật. Các nhà sinh vật học thì giải thích rằng "loài người có nguồn gốc từ loài vật tiến hóa, nên một số trường hợp vẫn còn mang theo di chứng của loài vật, giống như bị thoái hóa...". Trong giáo lý của Đạo Phật, không chỉ "vật tiến hóa thành người" như các nhà sinh vật học giả thiết, mà sự chuyển hóa đa chiều hơn, rộng khắp trong Lục đạo. Sự tái sinh trong kiếp sau sẽ được xoay vòng trong 6 nẻo là: Trời, A Tu La, Địa ngục, Ngạ Quỷ, Súc sinh, Con người. Tùy theo sự "gieo nhân tạo nghiệp" của kiếp trước mà quyết định điểm đến trong kiếp sau, sẽ là một trong 6 nẻo kể trên".
TS Vũ Thế Khanh

Theo KIẾN THỨC

Bé Như ý "Thần đồng" Phật giáo nhớ rõ chuyện từ...ba kiếp trước?



Nhà bé Nguyễn Thị Như Ý (ấp Vĩnh Lợi, xã Vĩnh Lộc, huyện An Phú, tỉnh An Giang) nhiều năm nay được giới đồng đạo khắp nơi biết đến với hiện tượng “thần đồng thuyết pháp”.
Anh Nguyễn Thành Hạnh (35 tuổi, cha ruột Như Ý) cho biết, ngoài việc học xuất sắc ở trường, đọc sách và nghiên cứu đạo pháp tại nhà là niềm đam mê của Như Ý.
Anh Hạnh cho biết thêm, Như Ý có khả năng kỳ lạ, am hiểu và có thể thuyết giảng trước đám đông hàng giờ đồng hồ theo chủ đề Phật giáo, khiến bất cứ ai cũng phải kinh ngạc.
Ở Vĩnh Lợi, người dân biết đến Như Ý không chỉ là “thần đồng” mà còn rất mến mộ và tôn kính. Họ cho rằng bé có nhân duyên từ tiền kiếp và được Đức Phật đầu thai, mới sớm bộc lộ những khả năng “khôn” trước tuổi.
Từ nhỏ, Như Ý đã tỏ ra là một cô bé đặc biệt với khả năng thuyết giảng đạo pháp.
Cô bé xinh xắn, vầng trán cao, đôi mắt sáng và giọng nói ấm áp, súc tích, lập tức gây thiện cảm ngay từ lần gặp đầu.
Nhìn con gái, anh Hạnh cười rạng rỡ, không che giấu niềm tự hào khi nhớ lại ước nguyện sinh con đã thành hiện thực: “Tôi vốn sinh ra trong gia đình có truyền thống đạo Phật Hòa Hảo. Hồi chưa lấy vợ, trong những ngày lễ, tôi vẫn thường tham gia những buổi thuyết giảng của các đạo sĩ, giảng sư tại những trung tâm Phật giáo hoặc ở các chùa. Nghe nhiều thấy mê, rồi mình sinh lòng cảm mến lúc nào không hay.
Từ đó, mỗi ngày niệm Phật, tôi cứ đinh ninh và ước mơ sau này sinh con, sẽ trở thành người thuyết giảng Phật pháp cho chư tăng huynh đệ, để đạo hạnh được tăng thêm nhiều phần. Nay thì mong ước của tôi đã trở thành hiện thực, thông qua con gái bé nhỏ của mình”.
Anh Hạnh kể, thời điểm hay tin vợ mang thai, anh càng hăng say tu đạo, ngày qua ngày cầu mong vợ sinh con như ý muốn.
Khi vợ hạ sinh lại là một bé gái, anh thoáng buồn bởi suy nghĩ từ trước đến nay trong giới đạo Pháp, rất ít thấy có vị nữ tu sĩ nào tham gia thuyết pháp. Như thế, ước nguyện của anh khó mà có cơ hội trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, trái ngược với nỗi lo ngại của anh Hạnh, đứa con gái của anh ngay từ lúc lọt lòng đã bụ bẫm và khôi ngô đến lạ kỳ. Nước da trắng nõn, cặp mắt tròn long lanh, đôi má lúm đồng tiền, miệng chúm chím rất duyên, khuôn mặt đầy đặn phúc hậu.
Ngắm nhìn con trong giây phút chào đời, bao nỗi chạnh buồn như tan biến. Bồng con trên tay, anh Hạnh quyết định đặt tên con là Như Ý, với niềm mong mỏi con mình sau này lớn lên làm bất cứ việc gì cũng thành công.
Đúng như những gì vợ chồng anh Hạnh ăn chay niệm Phật cầu mong, bé Như Ý mỗi ngày một khôn lớn khỏe mạnh, đồng thời mang lại cho mọi người hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Chị Nguyễn Thị Cam (33 tuổi, mẹ ruột bé Như Ý) kể: “Khi được hơn 3 tuổi, Như Ý đã nói chuyện như một người trưởng thành, giống hệt một tu sĩ tinh thông đạo pháp”.
Trong một lần nói chuyện với mẹ mình, Như Ý có nói rằng: “Con chỉ “mượn mẹ” để đầu thai xuống kiếp này tu thêm mà thôi. Kiếp trước của con là một người sinh ra có cha mẹ giàu sang, song con chỉ muốn đi tu mà không được song thân chấp thuận, con buồn tủi lắm, không dễ như cha mẹ bây giờ.
Kiếp thứ hai, con được làm một nữ cư sĩ, sống được 50 tuổi nhưng vì tu chưa đắc đạo nên kiếp này con về lại nhân gian để tu tiếp, mong rằng sẽ truyền bá sâu rộng chốn nhân gian hơn nữa, con người hòa hợp, không tranh giành đặc lợi mà giúp đỡ lẫn nhau
”.

Cũng theo chị Cam, một lần khác Như Ý không nghe lời khuyên răn của cha mẹ nên chị mắng, không ngờ bé cười rồi cất lời: “Con là một người khác chứ không phải là con mẹ đâu ạ, kiếp này con chỉ mượn cha mẹ để lên đây tu thành thêm kiếp đạo dang dở của con thôi”.
Nghe đứa con chưa tròn tiếng nói giọng “ông cụ non”, vợ chồng chị như lạc tai, khi hỏi lại thì bé vẫn nói lại y như vậy.
Vừa mừng vừa lo, mừng vì con khôn trước tuổi, lo vì bé nói những điều vô cùng khác thường so với đứa bé 3 tuổi bình thường. Không chỉ thế, liên tiếp trong thời gian sau đó, Như Ý còn mang những câu chuyện hết sức kỳ lạ nói về về tiền kiếp của mình kể cho cha mẹ và mọi người nghe.
“Thấy nó (Như Ý) hợp với đạo, nên tôi không cho bé nói nữa, mà tìm cách giải thích cặn kẽ để bé hiểu. Những điều này hoàn toàn có thực, nhưng do sợ người ta đàm tiếu rằng cha mẹ tôn sùng con cái để tuyên truyền mê tín dị đoan nên vợ chồng tôi không kể lại cho một ai”.


Gia đình Như Ý là bạn đồng đạo.

Càng thêm tuổi, Như Ý càng trưởng thành nhanh một cách kinh ngạc. Sự am hiểu Phật giáo của bé cũng theo đà đó, trở nên uyên thâm đến mức khiến nhiều người tu trong đạo không khỏi bất ngờ.
Mỗi lần theo cha mẹ đi nghe thuyết giảng về, bé có thể kể lại răm rắp không sót một từ, đồng thời có thể tự triển khai mở rộng, giảng thêm những nội dung và ý nghĩa sâu xa. Khi vợ chồng anh chị ra một đề tài trong đạo Pháp, thì bé tự đứng lên dõng dạc thuyết giảng thấu tình đạt lý, có thể sánh ngang những vị giảng sư lâu năm.
Bên cạnh đó, điều làm vợ chồng anh Hạnh ngạc nhiên là lúc 5 tuổi, bé đã đứng trước hàng trăm tu sĩ thuyết giảng hàng giờ đồng hồ khiến mọi người trầm trồ ngưỡng mộ.
“Lần đầu tiên, tôi trực tiếp nghe con gái mình thuyết pháp trước đông đảo chư tăng, đồng đạo. Ban đầu, tôi thấy rất lo lắng, nhưng sau khi nghe cháu cất lên những lời giảng đầu tiên, nhìn ánh mắt ngạc nhiên của chư tăng đồng đạo bên dưới tôi thấy an tâm hơn.
Sau khi bài thuyết pháp kết thúc, mọi người đứng lên khen hay, ai cũng cảm thấy hài lòng và khâm phục trước một giọng thuyết chưa tròn âm nhưng quá đỗi uyên thâm.
Chính lúc đó, tôi đã rớt nước mắt vì hạnh phúc. Vậy là coi như, ước mơ của mình đã được con gái biến thành hiện thực một cách như ý, như chính tên chúng tôi đặt cho cháu”, anh Hạnh cho biết thêm.
Với độ am hiểu đạo giáo tinh thông, thuyết giảng thu phục lòng người, Như Ý nhanh chóng được đông đảo phật tử biết đến, nhiều ngôi chùa trong giáo hội đã mời Như Ý về thuyết giảng, nói chuyện.
Cho đến nay, bé đã đăng đàn hằng trăm buổi nói chuyện, có thể thuyết giảng nhiều chủ đề khác nhau về đạo Phật, khiến cả những nhà nghiên cứu đạo pháp phải thán phục.
Với khả năng đối đáp trôi chảy, có sức truyền cảm mãnh liệt, Như Ý được người đời và các đồng đạo vô cùng mến mộ. Điều đáng nói, dù trọng vọng nhờ khả năng hơn người của mình, Như Ý vẫn luôn khiêm tốn tự nhận mình “chỉ là một người hiểu ít nhiều Phật giáo”, chứ không bao giờ nhận là một vị “giảng sư” như mọi người gán cho.
Không những thế, “thần đồng” Như Ý còn được mọi người thương mến nhờ đức tính hiền lành, lễ phép, say mê học tập văn hóa, nghiên cứu đạo hạnh. Như Ý ước mơ, cố gắng học tập để sau này trở thành người có ích cho xã hội.