Tình Tuyệt Vọng (My Secret) - Félix Arvers (1806-1850)



Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay.


Hỡi ôi !người đó ta đây
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân ?
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng dễ dám một lần hé môi


Người dù ngọc nói, hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Nào ngờ chân đạp lên trên khối tình

Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh lùng lòng sẽ hỏi lòng,
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây ?! 

Khái Hưng dịch 

từ bài thơ của Félix Arvers (1806-1850)  một nhà thơ Pháp.
Bài này vốn không tên, viết theo thể thơ Sonnet của Ý, thường được gọi là "Sonnet d’Arvers" (Bài sonnet của Arvers) hay "Un secret" (Điều bí mật). Một số sách ở Việt Nam có ghi tựa là "Tình tuyệt vọng".
Đầu thế kỷ 19, nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà nghệ thuật thuộc trào lưu lãng mạn ở Pháp tập trung trong hai văn đoàn: một văn đoàn do Charles Nodier (Viện sĩ Hàn lâm) đứng đầu và một văn đoàn do Victor Hugo đứng đầu. Felix Arvers tham gia chủ yếu ở văn đoàn Charles Nodier (1780-1844). Năm 1832, Felix Arvers cho xuất bản tác phẩm thơ đầu tay của ông nhan đề là "Những giờ uổng phí" (Mes heures perdues), 
Bài thơ Un secret (Điều bí mật) là bài thơ trong tập thơ đó, và là bài thơ nổi tiếng duy nhất của ông. Vì vậy trong nền văn học Pháp, Félix Arvers được xem là "Nhà thơ của một bài thơ duy nhất". Bài Un secret được viết dưới dạng một bài Sonnet (tức là một bài thơ gồm 14 câu, tuân theo cấu trúc và luật gieo vần khắt khe), do đó nó cũng thường được gọi là Sonnet d'Arvers (Bài Sonnet của Arvers).
Ông yêu cô Marie, nhưng đó là tình yêu đơn phương, nên ông viết bài Sonnet Un secret để bày tỏ tình yêu câm lặng của mình.

Sonnet d’Arvers - Félix Arvers (1806-1850)

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère:
Un amour éternel en un moment conçu.
Le mal est sans espoir, aussi j’ai dû le taire,
Et celle qui l’a fait n’en a jamais rien su.

Hélas! j’aurai passé près d’elle inaperçu,
Toujours à ses côtés, et pourtant solitaire,
Et j’aurai jusqu’au bout fait mon temps sur la terre,
N’osant rien demander et n’ayant rien reçu.

Pour elle, quoique Dieu l’ait faite douce et tendre,
Elle ira son chemin, distraite, et sans entendre
Ce murmure d’amour élevé sur ses pas;

À l’austère devoir pieusement fidèle,
Elle dira, lisant ces vers tout remplis d’elle:
« Quelle est donc cette femme? » et ne comprendra pas.



My Secret

My soul its secret has, my life too has its mystery,
A love eternal in a moment's space conceived;
Hopeless the evil is, I have not told its history,
And the one who was the cause nor knew it nor believed.

Alas! I shall have passed close by her unperceived,
Forever at her side, and yet forever lonely,
I shall unto the end have made life's journey, only
Daring to ask for naught, and having naught received.

For her, though God has made her gentle and endearing,
She will go on her way distraught and without hearing
These murmurings of love that round her steps ascend.

Piously faithful still unto her austere duty,
She will say, when she shall read these lines full of her beauty,
"Who can this woman be?" and will not comprehend.

--translated by Henry Wadsworth Longfellow

Sưu tầm