Tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử

1 - Phong trào thơ Mới đã mở ra một kỷ nguyên thơ tiến bộ thay thế cho những văn thơ cổ kính,niêm luật gò bó khắt khe. Đó là những vần thơ đầy sáng tạo, chứa chan chất thơ, duyên dáng trong phong cách, đa dạng phong phú trong lối biểu đạt... Nhiều nhà thơ tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên... và nhièu tài năng khác là nhlững người đã đẩy nền thi ca dân tộc phát triển trên một chặng mới.

        Đặc biệt trong làng thơ này có Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử đã xuất hiện như một hiện tượng “quái dị”, độc đáo làm cho nhiều người sững sốt, kẻ khen người chê. Hoài Thanh cũng đã xác nhận; “Hàn Mặc Tử có một tâm hồn tài năng dị biệt mà khen hay chê đều là bất nhân” (Thi Nhân Việt Nam)

Thơ Hàn Mặc Tử không phải là thơ bí hiểm,song một số bài có thể khó hiểu vì ta chưa thể bắt kịp tần số các lớp nội tâm của ông. Đến hôm nay, chúng ta cũng chưa hiểu hết Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên bạn ông, cũng đã thốt lên lời than thở : “Hàn Mặc Tử, anh là ai ?”.

        2 - Tài năng đó đã sáng tạo ra những vần thơ kỳ diệu, đẹp , say, thăng hoa, bay bổng vượt không gian hay xóay sâu vào vũ trụ tâm linh đơn độc, bao la, thăm thẳm... hướng dẫn đến một hạnh phúc no đầy mà con người khát khao vươn tới. Đó là những bài thơ Hàn Mặc Tử múc ở nguồn đạo, được cảm hứng từ Thánh Kinh, từ chuỗi hạt kinh lần, từ những phút cầu nguyện xuất thần, từ máu thịt sự sống của thi nhân.

        Tôi mạo muội nêu ý kiến về một vài trang thơ, mong cảm nhận hồn thơ thi nhân trong lảnh vực tôn giáo, mong hiểu nhà thơ với nét bút tràn khí lực siêu linh, nhưng cảm xúc thanh cao, trinh trắng được gột rửa bằng nước mắt, máu, sự ớn lạnh rợn mình, mà mỗi vần thơ đều làm cho Hàn Mặc Tử phải tiêu tán đi trong thương đau, bệnh hoạn như phân than, lột xác.

        Tài liệu viết về Hàn Mặc Tử rất nhiều, nhưng cảm nhận từ lảnh vực tôn giáo thì rất ít người đề cập. Chúng tôi dựa vào thơ và cuộc đời Hàn Mặc Tử qua các tác giả Trần Thanh Mại, Nguyễn Bá Tín, Trần thị Huyền Trang, Lữ Huy Nguyên để đối chiếu, xem xét các trang Kinh Thánh đã ảnh hưởng đến nguồn thơ. Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm hiểu vấn đề qua nghệ thuật âm nhạc, hợp xướng thi ca Hàn Mặc Tử (Ave Maria) do nhạc sĩ Hải Linh phổ nhạc và điều khiển (1988); băng Trường ca Hàn Mặc Tử của Phạm Duy phổ nhạc và giới thiệu (1994).

        Tất cả mong cố gắng trung thành với cảm nhận hồn thơ tôn giáo của tác giả một cách đúng đắn chân thành. Nhưng rồi tôi cũng cảm thấy đã lạc vào cõi siêu linh, huyền bí, hư hư thực thực, một vũ trụ bao la, một hồn thơ siêu thoát đã bay thật, bay xa khi thi nhân đã vượt ra ngoài vũ trụ, ngập tràn trong ánh sáng nguyện cầu mà chính tác gỉa đã thảng thốt:

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu

Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang” (Ave Maria)

        3 - Hàn Mặc Tử mãi là vấn đề được đặt ra. Có người cho rằng : “Vì ác bệnh nên thi sĩ lấy đạo như một lẽ sống tuyệt vời và trút vào thơ những chứng nghiệm của tâm hồn, ông ráng leo lên đỉnh Thượng thanh” (Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử). Kẻ khác khẳng định : “Về đạo thì chắc chắn Hàn Mặc Tử phải là nhà thơ của Thiên Chúa giáo rồi... con đường đi vào đạo là con đường thăng hóa mọi sự” (Phạm Duy, Trường ca Hàn Mặc Tử)

        Như vậy, đạo với Hàn Mặc Tử là cứu cánh, là Con đường, là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối có giá trị vĩnh hằng mà nhân loại mãi trên hành trình hội nhập, tìm kiếm; hay chỉ là một lối nghệ thuật cao thuộc chủ nghĩa siêu linh, một biểu tựơng mỹ học diễm kiều trong văn học nghệ thuật, một cõi xuất thế, một bến trăng an toàn cho người thơ ẩn náu trong tuyệt vọng khổ đau, trong cô đơn nhân tình thế thái ?

Đó là vấn đề hết sức hấp dẫn, khóa luận này cố gắng lý giải những vấn đề đó thông qua sự cảm nhận và suy nghĩ chủ quan. Đó cũng là những vấn đề hết sức khó, bản thân người viết tự biết vẫn còn những hạn chế về nhiều mặt. Do vậy, chắc chắn không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Mong các thầy, các cô và các bạn góp ý thêm

        Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn, các thầy, các cô trong khoa và các bạn đã khuyến khích tôi hoàn thành bản khóa luận này.

 

Chương I : Tôn Giáo và Cuộc đời Nhà Thơ

 

        1. Thiếu thời :

        Hàn Mặc Tử sinh ra trong một gia đình công giáo (xứ Lệ Mỹ, Quãng Bình) vào ngày 22/9/1912. Thân sinh ông Nguyễn văn Toản và bà Nguyễn thị Duy vui mừng nghe tiếng khóc chào đời của người con thứ tư (Nhân Nghĩa Lễ Trí). Vài hôm sau, tiếng chuông nhà thờ họ đạo Tam Toà ngân vang hòa với tiếng sóng biển Đồng Hới chào mừng em bé Phêrô Nguyễn Trọng Trí chịu phép Thanh Tẩy (1). Và cũng tại đây có tu viện Mến Thánh Gía Tam Tòa, hình bóng dịu dàng khiêm tốn của các nữ tu sinh hoạt, cầu nguyện giữa lòng giáo xứ...

        Trong di sản chung cuả dòng họ, được giáo dục bởi cha mẹ ngoan đạo, môi trường xứ đạo nề nếp, tổ chức; thời hoa niên Nguyễn Trọng Trí là chồi non sẽ trổ lộc vàng . Điều đó ẩn dật nơi cậu thiếu niên đạo đức, sốt sắng, tinh khôn. Tuổi nhỏ Nguyễn Trọng Trí theo cha trên bước đường công vụ, hầu như là những vùng ven bờ chan hòa sóng biển, Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn (1921), Bồng Sơn (1922-1923)... Anh chị em trong gia đình đã có thói quen đi lễ từ 4, 5 giờ sáng. Chiều tối, màn đêm bao phủ không gian, gia đình quây quần đọc kinh, trò chuyện... Tại Quy Nhơn, Cha Thiêng thấy cậu bé đỉnh ngộ, thông minh, chăm học giáo lý, Ngài muốn đỡ đầu để Nguyễn Trọng Trí đi tu... Lời dạy đó không ra vô ích nơi tâm hồn cậu thiếu niên này. Đức thanh khiết công giáo là đóa hoa quý được nâng niu, trân trọng, giữ gìn từ niên thiếu cho đến cuối đời, tư tưởng, lời nói luôn ánh lên sự đơn sơ trong trắng. Một đóa hoa thơm từ tốn, duyên dáng, kín đáo, tô điểm cho mọi nhân đức khác, lòng khiêm nhường (humilité) anh cẩn trọng tập luyện và gìn giữ cho đến cuối đời, khi đọc kinh anh cũng kín đáo, tràng hạt để trong túi, hai tay thọc vào, đi đi lại lại (2). Về sự khiêm nhường (của Trí) , từ ngày vô cho đến chết Trí chưa hề nói một tiếng Pháp với bất cứ Mẹ nào. Lúc nào tôi cũng là người thông ngôn (3). Anh Nguyễn văn Xê cũng rất nể nang thán phục về người bạn quý cuả mình khi tìm gặp trong túi áo anh Trí bài tụng thi Pureté de l’âme (Tâm hồn thanh khiết) để nói về các Mẹ, các soeurs...

        Sau này, trong sự nghiệp thi ca, Hàn Mặc Tử đã để lại tất nhiều thơm nức mùi đạo hạnh toát ra từ nội tâm sâu xa và cũng rất đơn thành trong dòng thơ của anh.

        Năm 1926, bốn bức tường trăng bệnh viên Huế lặng lẽ chưng kiến sự ra đi vĩnh viễn cuả thân phụ. Biến cố đau buồn đó đóng khép đời hoa niên cuả Nguyễn Trọng Trí. Thân mẫu anh can đảm gánh lấy trách nhiệm gia đình trên đôi vai gầy yếu. Bà lưu tâm đến việc học và tương lai cuả con. Niên khoá 1928-1930, Bà gởi Nguyễn Trọng Trí ra Huế học trường Pellerin, một trường dòng có tiếng ở Kinh đô. Các sư huynh Thiện giáo là những bậc thầy có kỷ năng và kinh nghiệm trong việc giáo dục, đào tạo. Học giáo lý Công giáo là gì bắt buộc hàng tuần theo nội quy trường.

        Nhưng rồi Nguyễn Trọng Trí đã sớm trở lại Quy Nhơn với Mẹ. Thời gian này, một biến cố ghi đậm nét suốt đời anh, và thay đổi con người anh, anh suýt chết đuối ở bãi biển. “Anh Trí đuối sức bị ngất đi phải nằm ngửa cho sóng đẩy vào bờ. Trông anh sợ hãi khác thường, thần sắc ngơ ngác như không trông thấy gì nửa. Anh lẩm bẩm nghe như Đức Mẹ, Đức Mẹ... Tôi tưởng anh cầu nguyện. Trông anh khác lạ đi, nhìn anh tôi càng hoảng sợ... Từ ngày đó, anh không tắm biển nữa, sợ nước, ít hoạt động, nói năng nhỏ nhẹ như có ai nghe. Anh thu mình laị, sống nội tâm, trầm mặc xa vắng (4). Anh đã ghi lại những kỷ niêm này bằng những dòng thơ bất hủ, sửng sốt, ngất ngây và cũng rất nồng nàn tha thiết.

Maria, linh hồn tôi ớn lạnh.

Run như run thần từ thấy long nhan

Run như run hơi thở chạm tơ vàng...

Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”  (Avê Maria)

 

        2. Thành Nhân :

        Nguyễn Trọng Trí thời niên thiếu có nhiều đam mê như bắn ná, quyền anh, bơi lội, đọc sách... Nhưng rồi anh đã giã từ chúng rất sớm và vĩnh viễn dừng lại nơi Bến thơ cho đến lúc người thơ anh hao tàn. Tài năng thơ của Nguyễn Trọng Trí đã được người anh cả Mộng Châu phát hiện từ rất sớm... Đó là những năm cả nước hướng về cụ Phan Bội Châu, nhà chí sĩ yêu tự do dân tộc, đang bị Pháp cho lưu trú ở Bến Ngự (Huế). Với Mộng Du thi xã, Cụ tổ chức nhưng cuộc thi thơ, và thơ của Phong Trần (bút hiệu của Nguyễn Trọng Trí) đã được Cụ khen ngợi và cùng họa thơ lại trên báo, cũng như ước ao Hồng Nam Nhạn Bắc có ngày gặp nhau... Nguyễn Trọng Trí nổi tiếng vào thời kỳ đó.

        Đời làm trai sao khỏi phóng tầm mắt nhìn vào thế giới xa lạ, đến tương lai ngập hương hoa mà tung cánh giang hồ. Tuy thế, anh đã đi gạch tên khỏi danh sách những người đi Pháp du học, do anh đã ”chơi thân”với nhà chí sĩ họ Phan.

        Anh vào Sài Gòn làm báo, cuộc đời đem đến cho anh nhiều thành công, tình yêu, bè bạn, nhưng cũng nhiều thiếu thốn và gian khổ.

        Khi anh bắt đầu nổi tiếng, anh cũng bắt đầu yêu, thơ và tình đến với anh một lượt. Tình yêu Mộng Cầm đến với anh qua sự trao đổi thơ văn. Anh ước mơ người đẹp cách cổ điển, thư trung hữu mỹ nữ. Những năm sống và làm việc tại Sài Gòn, bè bạn muốn lội kéo anh vào lối sống sa đọa, ăn chơi, nhưng anh không vào được, thời gian này anh có bài Bẽn lẽn :

Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi.

Vô tình để gío hôn lên má

Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm

Em sợ lang quân em biết được

Nghi ngờ đến cái tiết trinh em

Anh đấu tranh giữa hai dòng thơ : dâm loạn và trinh trắng, anh đã thắng,vì thơ anh vẫn giữ khỏang cách với ý thơ cuồng loạn của thời đại. Sự giằng co nội tâm trong chiến trường tình dục làm cho anh trở nên thầm lặng hơn, nhất là sau cuộc thử thách lớn với mối tình Mộng Cầm, anh vẫn bình tỉnh tự vệ:

Vườn chói lọi thì tình yêu phải ngợp

Tiết trinh còn em phúc hậu hơn thơ

. . .

Tôi nín lặng âu là tôi mắc cở. . .

(Dấu tích)

Hồn tôi mắc cở là vì

Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây

(say nắng)

        Anh không theo kịp mối tình Mộng Cầm, người con gái mới “Vì một phần khác anh sợ phạm tội, mà sợ phạm tội thì đúng hơn”. (5)

        Trước đây 3, 4 mươi năm, Việt Nam ta ở trong nền văn hóa Đông Phương, lễ giáo nghiêm khắc, kín đáo, e dè, vấn đề tính dục ít được bàn đến, ngay đến các nhà giáo dục, bậc phụ huynh cũng tìm cách tránh né, nam nữ giao thiệp với nhau vẫn giữ khỏang cách tế nhị “nam nữ thụ thụ bất thân”.

Tuổi thanh niên sống xa gia đình, nhiều bè bạn, môi trường hoạt động tự do rộng rãi, nếu anh “không có một căn bản giáo dục vững chắc, cộng với sự nghiêng ngữa của chứng bệnh tâm thần” (*), anh có thể trở thành kẻ đói khát tình dục mà hậu qủa khó có thể đo lường được (6). Mối tình của anh với Mộng Cầm say đắm thiết tha, khi đã chia tay nhau thì thật khổ lụy, anh Trí thất vọng, mặc cảm, cô đơn và tràn xót xa :

Ta lau nước mắt, mắt không ráo

Ta lấy tình nương rủa biệt ly

(Tình thu)

        Sau này Mộng Cầm cũng xác nhận : “Chúng tôi rất mến nhau. Nhưng đó là mối tình thơ văn, còn xác thịt thì hoàn toàn không nghĩ tới, cha mẹ đã cho giao thiệp tự do, chúng tôi phải giữ gìn cho xứng đáng” (7).

        Con người tài hoa, thơ văn dào dạt, tình yêu nồng nàn, cuộc sống phóng khoáng, nhưng một đường rang vô hình nào đó, một động lực vô hình nào đó đã giữ gìn ấp yêu, vây bọc anh, để anh không rơi vào tình trạng sa đọa hoặc buông thả. Phải chăng, anh xứng đáng với cái tên rất thơ, rất đẹp mà Nguyễn Thụy Kha viết về anh qua tác phẩm “Hàn Mặc Tử, thi sĩ đồng trinh” (8).

        Với bạn bè, anh cởi mở, thân mật, chan hòa, chia xẻ những gì anh có, vật chất lẫn tinh thần. Anh nhận mình là nhà thơ nghèo, đồ đệ Mặc Dịch. (9) Hàn Mặc Tử là “người điều hòa và thắt chặt các mối dây bằng hữu; tuy anh đã sớm gĩa từ cõi trần nhưng vị trí anh không mờ nhạt trong tâm hồn các bạn” (10). Những tâm hồn tốt, trung thành, thủy chung ấy liên kết với nhau lúc còn sống; giúp nhau tiến lên trên đường sự nghiệp, và bây giờ, ba người trong nhóm họ đã ra đi (Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Chế Lan Viên), mà hương thơm bè bạn giữa họ vẫn quyện chặt lấy nhau, đến đổ khi nhắc đến một người ta lại liên tưởng đến mối tình quý hiếm bất diệt của nhóm thơ đó.

 

        3. Bệnh và qua đời :

        Hàn Mặc Tử bị bệnh vào năm 1936, lúc còn qúa trẻ, mới 24 tuổi xuân. Thời gian đầu anh buồn phiền, hoảng hốt, tinh thần chao đảo... Gia đình, nhất là người Mẹ đã hết sức chăm chút con, nghe đâu có thầy hay thuốc tốt, bà đều đem con đến, nhưng chỉ gặp tia hy vọng rất mỏng manh, anh tiều tụy, đau nhức, rên xiết :

Tôi đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến

Tôi đau vì rùng rộn đến vô biên ...

        Tâm trạng anh biến đổi qua thơ văn, nửa mơ nửa thực. Chú Hành (11) kể: “Nhiều lúc Hàn Mặc Tử ngồi lặng bất động nhiều giờ trên ghế, nhưng lúc bị gọi thì tỉnh táo như thường”. Do việc chạy chửa, anh phải di chuyển từ chổ này sang chổ khác, cô liêu trên bãi vắng, đơn độc trong thôn xóm quạnh hiu, hay tủi thầm trong canh khuya lúc cả nhà đã yên giâc, anh đã hoảng sợ, như có hình ảnh ma quái chết chóc bám sát anh :

Chao ôi, ghê qúa, ôi ghê qúa,

Cảm thấy, hồn tôi ớn lạnh rồi

        Càng về sau, mặc dầu đang ở trong biển sầu đắng đó, nhưng anh đã gặp lại được chiếc phao niềm tin, ánh sáng của vầng trăng dịu dàng anh vẫn say mê đang dìu anh êm êm lướt sóng, an vui, thanh thản, bồng bềnh, những cơn đau đã làm anh có cơ hội tiến sâu vào lảnh vực siêu thực mà chỉ mình anh mới cảm nhận được... Bài “Chơi trên trăng” là con đường được mở ra từ “trong ánh sương mờ” anh chếnh choáng đi tìm “con trăng lạc”. Hạnh phúc, sức khỏe, sự nghiệp không còn ở trong tầm tay với, nhưng thật sự anh đã bước một bước mạo hiểm ... vào xứ tràn ngập gío mây mà “không trào nước mắt, không thảm buồn” vì anh “đã nhập hồn mình trong khúc hát để nhờ không khí đẩy lên trăng”.

        Anh an tỉnh chuẩn bị hành trình về “Nước Cha cả có vô vàn châu báu”, anh gieo vào bạn bè ý tưởng siêu thóat rất thơ và cũng là chân lý, chết : “đó là ngưỡng cửa phải bước qua để đi vào cỏi vĩnh hằng”.

        Năm 1940, anh vào bệnh viện phong Quy Hoà, anh thâm tín cách sâu xa : “đều là vâng theo thánh ý cả”. Trước khi anh “ra đi”, anh đã viết cho mẹ một dòng đứt ruột : “Mẹ ơi, con sẽ chết nay mai mẹ ạ. Cầu cho con được ơn chết lành...””

        Anh biết anh sẽ về neo bến Hằng Sống, cuộc hành trình tuy gần mà xa, xa mà gần, anh xin những người xung quanh cầu nguyện; lạc quan vui vẻ tin tưởng vào chính mình và tin vào tình yêu Thiên Chúa. Bài “Pureté de l’âme” ca tụng những thiên thần trần thế, bài tụng thi ngập trong điệu nhạc và hương hoa, anh viết những tâm tình rất chân thành tự đáy lòng tràn ngập sự biết ơn. Nơi anh một nhân cách trưởng thành phong phú ; đón nhận cuộc sống ; nhìn thẳng đau khổ và chấp nhận cái chết với ánh sáng niềm tin Kitô giáo dọi soi, chết chưa là tận cùng mà là khởi đầu vinh quamg, của sự sống.

        Đạo và đời trong thơ Hàn Mặc Tử là một, hoà nhập thành thân thể máu huyết, hơi thở anh cũng là thơ văn, lời cầu nguyện của anh. Anh lặng chìm vào Đạo như cá nhởn nhơ trong nước, tan biến như hạt muối hòa vào đại dương. Ngày 11/11/1940 chuông nguyện thánh đường bệnh viện rơi từng giọt buồn đưa tiễn linh hồn anh. Anh được chôn cất giữa những người đồng bệnh. Cây thánh gía gỗ khiêm tốn phủ bóng lên ngôi mộ anh. Anh nằm đó như hạt lúa gieo vào lòng đất đợi ngày trổ sinh bông hạt.

        Thế là Phượng Hoàng Hàn Mặc Tử đã bay, bay vào Mùa Xuân bất tận anh đã từng chiêm ngưỡng trong những phút xuất thần.

 

Chương Hai : Kitô giáo trong thơ Hàn Mặc Tử,

nhìn dưới góc độ tôn giáo.

 

Phượng Hoàng bay trong một tối trăng sao

Mà ánh sáng không còn khiêm nhượng nửa...

(Đêm Xuân cầu nguyện)

 

        1. Tên Phượng Hoàng :

        Cái tên đẹp, cao sang của Hàn Mặc Tử có gốc từ Kinh Thánh. Phượng Hoàng, con chim thần có tầm phóng trổi vượt các loài chim, hình ảnh biểu tượng của Thánh sử Gioan Tông đồ, “người được Chúa yêu”. Vị thánh được Giáo hội công giáo xem là bay cao nhất khi người viết Phúc âm thứ tư và sách Khải huyền trong bộ Kinh thánh Tân ước.

        Mở đầu Tin mừng thứ tư, Thánh sử đã khai bút bằng thi khúc trang trọng, vượt mọi tầng không chạm đến cung lòng Thiên Chúa : “Từ nguyên thuỷ đã có Lời, Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa, Ngài đã có lúc khởi nguyên nơi Thiên Chúa” (Gioan 1,1). Tín điều đó là bản tuyên ngôn về “Lời” tạo thành, cũng là Ngôi Lời “Ngôi Hai Thiên Chúa” cũng chính “Lời” hoàn tất công cuộc cứu chuộc... Phượng Hoàng : Thánh Gioan đã khám phá những bí nhiệm nơi Thượng Đế, từ Thượng Đế, trong lúc các vị khác phải bắt đầu từ con người nhập thể của Lời trong thế gian... Không gian vô tận và nguồn suối Thánh Kinh bắt đầu từ đó...

 

        2. Tôn giáo và Thiên nhiên :

        Thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử không ai phủ nhận thi nhân đã mở rộng biên giới thơ nhờ sáng tạo độc đáo, và nhất là đới sống tôn giáo mà Hàn Mặc Tử đã lặng chìm vào đó trong những ngày cầu nguyện như một vị tu sĩ, đặc biệt là những năm cuối đời 5 lần đọc kinh được chia đều trong ngày. “Ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả” (12). chính Hàn Mặc Tử đã thổ lộ như thế. Anh sống với thế giới siêu hình một cách tự nhiên đến mức “hư thực làm sao phân biệt nỗi”, thi nhân nghe điều chúng ta không nghe, thấy cái mắt trần chúng ta không thấy... Chúa luôn luôn có trong những bài thơ hay của thi sĩ :

Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều

Để nghe dưới đáy nước hồ reo

Để nghe tơ liễu run trong gío

Và để xem trời giải nghĩa yêu

(Đà lạt trăng mờ)

        Thi nhân đã lặng chìm vào sao, sương, đắm đuối trong đêm êm ả,sông Ngăn lặng lờ, thinh không bàng bạc, gió hôn tơ liễu, thời gian lặng chìm để... xem trời giải nghiã yêu, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (13) nên Ngài đã trãi rộng tình yêu Ngài trên muôn tạo vật...Thi sĩ thì thào bên tai ta “chớ nói nhiều” để lặng nghe... Phải chăng giây phút thiêng liêng « đã khởi đầu”, khởi đầu cho sự đắm đuối miên man trong tình yêu qua kỳ công tuyệt diệu của Thượng Đế.

        Nhạc sĩ Phạm Duy có lẽ đã hiểu Hàn Mặc Tử ông không ngần ngại bỏ ra cả năm trời để nghiên cứu phổ nhạc thơ Hàn Mặc Tử . Với ca khúc “Đà Lạt trăng mờ” này, Phạm Duy đã để cho ca sĩ hát đến 3 lần dòng nhạc “Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu...” với âm thanh vời vợi mông lung... Trong lúc

Cả trời say nhuộm một màu trăng

Và cả lòng tôi chẳng nói chẳng rằng

Không một tiếng gì nghe đụng chạm

Dầu là tiếng vở của sao băng

        Tức là cả vũ trụ, cả vận hành tinh tú không ngừng bên ta. Linh thiêng làm sao, mỹ miều làm sao một đêm huyền ảo .Ba tiếng chuông được gióng lên ở tận cùng ca khúc lắng đọng vào không gian, rót vào lòng người như nhắc nhở người nghe rằng trong cuộc sống này Đạo ở muôn nơi...

Cứ như thế ta đọc được nhiều vần thơ, nhiều đoản thi cao sang thanh khiết của Hàn Mặc Tử như : Ra đời, Điềm lạ, Nguồn thơm, Xuân đầu tiên, Đêm Xuân cầu nguyện, Ngoài vũ trụ, Vầng trăng... trong tinh thần tôn giáo. Vũ trụ, chẳng những giữ được vẻ trinh nguyên cuả trời đất, mà còn đượm một cảm giác huyền bí thiêng liêng “

        Trăng, sao, hoa, hương ngập tràn lai láng trong các vần thơ cuả Hàn Mặc Tử, nào có phải vì bệnh hoạn, tâm thần, ám ảnh gì đâu ; sau này trong “Đau thương” thi nhân lại còn nâng lên một bậc nửa. Thiên nhiên, trăng gió và thi sĩ như được hòa nhập, hiểu nhau, thẩm thấu vào nhau.

Trăng đang nằm trên sóng cỏ

Cỏ đưa trăng đế bờ ao

Trăng lại đầm mình xuống nước

Trăng nước đều lặng nhìn nhau... (?)

Hay :

Tôi dìm hồn xuống vũng trăng đêm

Cho trăng ngập trăng dồn lên tới ngực

Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức

Rồi bay lên cho tới một hành tinh. (Hồn là ai ?)

        Thi nhân và trăng là đôi bạn thân từ hồi trẻ. Bãi trăng Sa Kỳ “trăng dày đặc, cử động hay di chuyển như kéo cả trăng theo”. Bài “Chơi giữa mùa trăng” đẹp qúa, tuyệt vời qúa, tôi chẳng phải biết trích ở đoạn nào, câu nào... Có lẽ ta nên đứng xa xa, dõi theo chiếc thuyền trăng đang nhẹ lướt, trong thuyền đang có hai người trăng. Hai chị em Như Lễ, Nguyễn Trọng Trí đã bơi lạc vào sông trăng rồi. Hãy để họ hưởng những phút thần tiên của thế giới trăng sao giữa trời đêm. “A ha, Chị Lễ ơi, chị là trăng và em đây cũng là trăng nửa”. Rồi Hàn Mặc Tử khát khao “em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi...””

Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao gía lắm

Xin ban ơn bằng cách cho ánh thêm lên...

(Vầng trăng)

        Đó là những lời cầu bộc phát từ con tim ngây thơ trong sáng của anh, lời cầu tự nhiên như hơi thở, như nhịp rung từ lồng ngực anh. Nơi khác, anh tha thiết :

Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió

Hãy dâng cho một tràng chuổi trăng sao...

(Tựa Xuân như ý)

 

        3. Nguồn Thơ :

        Nguyễn Trọng Trí xác tín “Đức Chúa Trời đã tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa, và nhân đấy, chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm phép tắc của Đấng chí tôn...”. Bởi thế “loài thi sĩ” được ra đời, là “bông hoa quý hiếm, phải làm tròn nhiệm vụ, là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu lưu danh muôn đời” (14) . Luôn luôn, Hàn Mặc Tử muốn vươn cao lên, ước mơ xa hơn, toàn bích hơn trong sáng tạo để trút vào người khác nguồn khoái cảm thơm tho tinh sạch. Khát vọng ấy nung nấu anh, bỏng cháy nguồn thơ anh vì “người tri kỷ cuả thi sĩ phải là một bậc cao quý, toàn năng, một Đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự - Đấng ấy là Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm thương đau với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng anh hoa, thế mới mãn nguyện” (15).

        Người Kitô hữu tin Thiên Chúa dựng nên mọi sự. Thế giới xinh đẹp này được ban tặng cho con người, mong họ hạnh phúc, chẳng những thế, Thiên Chúa còn đặt họ làm chủ vạn vật tạo thành, họ là vua mọi loài. Từ “Mùa Xuân đầu tiên” khi càn khôn mới dựng nên, gió căng hơi và nhạc lên trời, trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm, còn mặt trời kia tưạ khối vàng..., cái thời xa như huyền thoại, giữa vườn diệu quang tinh khôi thơ mộng ấy, chiều chiều gió hiu hiu thổi. Thượng Đế vẫn thường bách bộ đến trò chuyên với con người... Nhưng rồi mây mù bóng tối đã chụp xuống, trái cây “bằng ngọc” kia đã trở thành “trái cấm”, con người phá vỡ tình yêu Đất Trời trinh nguyên vì “hương cám dổ mê người trong khoái lạc”... Từ đó, cánh cửa địa đàng khép lại, dấu chân con người phải lang thang tìm kiếm trong nuối tiếc vô biên

        Bài “Ra đời” được viết trong khát vọng đó, nhưng thật tuyệt vời, hoàn hảo và chan chứa niềm vui thánh thiện. Từ trong “thiên địa đắm hoang mang” niềm hy vọng đã bừng lên rộn rả mảnh liệt, vì từ thiên đàng

Bay những tiếng tung hô Thánh đức

... Ánh hào quang chan chói lưu ly

Ôi Thánh, Thánh, Thánh

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc

... Rất phương phi trên hết cả anh hoa

        Bài “Ra đời” kết tinh câu chuyện lịch sử Kinh thánh từ Cựu đến Tân ước... Trái táo Eva đã đi vào văn hóa thế giới bất phân tôn giáo. Trái táo hồng tươi mọng chín là hương cám dổ, là sự quyến rũ và đồng thời cũng là sự gãy đổ do khoái lạc gây nên ; nhưng chính nó cũng là căn nguyên của tình yêu cứu chuộc, tình yêu tái tạo. Vì thế, nghệ thuật trưng bày đêm Giáng sinh, người ta không ngần ngại đặt Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, trong hình hài một thơ nhi mới sinh nằm đơn sơ trên trái táo, hoặc những hình thức nghệ thuật tương tự...

Chàng ơi Chàng ơi, sự lạ đêm qua

Mùa Xuân tới mà không ai biết cả...

        Hẳn là thi nhân đã được xuất thần trong một đêm cầu nguyện nào đó

Ta chắp tay qùy hoan hảo

Ngữa trông cao cầu nguyện trắng không gian

(Đêm Xuân cầu nguyện)

vì,

Phượng Hoàng bay trong một tối trăng sao

. . .

Đương cầu xin, ọc thơ ra dường sửa

Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau... (Đêm Xuân cầu nguyện)

        Sự lạ đã chiêm ngắm, đã tận hưởng, vì Phượng Hoàng đã đáp xuống một miền xa lạ, diễm ảo, ngất ngây. Mùa Xuân đã vây bọc lấy chàng, vỗ về yêu thương chàng mà chẳng ai hay biết. Phải chăng mùa Xuân vĩnh cửu đã hé mở cho chàng cánh cửa nghìn thu, Mùa Xuân đợi chàng neo bến... nhưng mùa Đông se thắt bệnh hoạn, xác thân còm cõi vẫn đang giam giữ chàng một ít thời gian nửa,

        Với tư cách là một nhà thơ tôn giáo, với tất cả tinh thần của chữ ấy, nghệ thuật trong thơ được Hàn Mặc Tử nâng lên đến tuyệt đỉnh. Thi nhân mách bảo với Bích Khê : “Sáng tạo là điều cần thiết tối thiểu cuả thơ, mà muốn tìm cảm xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều, như thế thơ văn mới trở nên trọng vọng, cao quý, có một ý nghĩa thần bí” (16)

        Trong bài tựa “Xuân như ý” thi nhân viết : “Lạy Chúa Trời đi, Hãy ban cho tôi hằng hà sa số là ơn lành, ơn cả. Thơ tôi sẽ rất no, rất ớn , rất nư, trọng vọng như tài hoa, cao sang như nhân đức, chói chang vô vàn phước lộc...” (17)

Cho vỡ lỡ cả muôn ngàn tinh đẩu

Cho đê mê âm nhạc và thanh hương

để :

Lòng vua chúa cũng là lòng lê thứ

Sẽ ngất ngây bởi chưng thơ đầy ứ... (Ave Maria)

1.3.3. Những câu chuyện rất đẹp của Thánh Kinh có lẽ Hàn Mặc Tử đã thuộc từ thời thơ ấu, anh cất giữ vào lòng trí cách tự nhiên, êm đềm, có dịp lại trào ta như không vách chắn nào cản nổi

Lụt hồng thuỷ trời không cho tái lại

Khiến bồ câu bay bổng qúa không gian. (Ngoài vũ trụ)

        Ấy là vào thời xa xuôi mông muội, sau khi Adam-Eva phạm tội, thiên thần Chúa cầm gươm lửa xua ra khỏi vườn diệu quang. Loài người sinh sôi nẩy nở, tội ác họ vẫn phạm, điều đó làm cho Thượng đế hốai hận vì đã tạo thành họ... Ngài khiến một cơn mưa lụt suốt 40 đêm ngàyđể hủy diệt họ... Tuy vậy, Ngài còn mến thương gia đình Noe. Ngài dạy đóng tàu (suốt một năm) ... Khi đã đủ thời giờ chờ đợi con người ăn năn, Ngài dạy 8 người nhà ông Noe vào tàu, và súc vật chim muông từng đôi một... Người và muôn vật an toàn sau cái lụt có một không hai đó... Lúc tạnh mưa, trời quang đãng, trên vòm không gian trong xanh xuất hiện một vồng cầu nhiều màu xinh đẹp... Đó là giao ước. Thượng đế bảo con người “Từ nay sẽ không bao giờ lụt hồng thủy tái lại nữa”. Một chim câu được ông Noe thả ra, chú vỗ cánh và tung mình vào trời mây lộng gió.

... Có Đấng hằng sống ngự trị

Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh (Ngoài vũ trụ)

        Thế đó, Thượng đế không muốn xa loài người, Ngài yêu thương và vẫn xem con người là bạn hữu như thuở ban đầu dựng nên. Giao ước là Cầu vồng ký kết giữa hai người bạn; khi thấy Cầu vầng xuất hiện sau mỗi cơn mưa lớn, con người nhận biết Thượng đế tín trung thủy chung với tạo thành qua dấu hiệu cầu vồng lơ lững giữa trời như thế. (Thánh Kinh Cựu ước. Lụt hồng thủy).

        Tâm hồn thi nhân phóng khoáng bao la, thi khúc “Ngoài vũ trụ” được ghi lại trong tập thơ “Máu cuồng và hồn điên” nhưng hồn thơ của Hàn Mặc Tử tự do, thanh thoát, không bị giam hãm trong đớn đau bậnh hoạn, trái lại, nỗi đau thân phận đã trở thành bệ phóng cho thi nhân vượt không gian

Nơi khí tượng bốc nguồn muôn tinh tú

Nơi không cho hồn lai vãng quan chiêm (Ngoài vũ trụ)

        Những giờ cầu nguyện, chiêm ngắm chìm ngập trong tình yêu giữa Thượng đế và thọ sinh đã đưa Hàn Mặc Tử đi rất xa tới miền cực lạc ; thần học tu đức công giáo đặt giai đoạn này vào bậc cao, bậc hiệp nhất, là “Hôn phối thiêng liêng” giữa Thượng đế và linh hồn, cả hai đã trở nên một... Từ trước đến nay chưa ai phân tích thơ Hàn Mặc Tử từ góc độ Thần hiệp ấy, nhưng qua nhiều vần thơ ta có thể minh họa Hàn Mặc Tử đã được hưởng nếm sự dịu ngọt thiên linh ấy. Tâm thần đầy hoan lạc chàng ghi lại :

Ôi say sưa trên hết các tục tình

ồ thú lạ những phút giây thanh thoát

(Ngoài vũ trụ)

hay :

Ta ngất đi trong khoái lạc của hồn đau

Trên chín tầng, diêu động cả trân châu

Dường sống lại muôn ngàn hoa phẩm tiết

(Đêm Xuân cầu nguyện)

        Và tuy lặng đắm trong say sưa cảm mến, hồn cũng nhận ra, và cách tự nhiên nhận ra thân phận ti tiện thấp hèn của mình trước nhan Đấng toàn Thánh.

Tôi van lơn, thầm nguyện Chúa Giêsu

Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối

Xin thứ tha những câu thơ tội lỗi

Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng.

(Đêm Xuân cầu nguyện)

        Đó là tâm tình sám hối cần thiết để linh hồn được thanh tẩy cho thanh sạch hơn.

        Hàn Mặc Tử, con trăng nhởn nhơ trước nhan Thượng đế, “trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay” với tâm tình phó thác, với lòng tin yêu vâng phục thiên ý thi nhân vui mừng nhận ra sự hiện hữu vĩnh hằng cuả mình trước nhan Đấng tối cao, có cả bạn bè trong qủy đạo tình yêu không phân biệt tôn giáo.

Chế Lan Viên qùy dâng tràng chuỗi hột

Cầu khúc tinh hằng chiếu mạng người thơ

Và hoan hỉ , tin tưởng

Lạy chín phẩm thiên thần xin chứng giám :

Ta sống mãi với muôn Xuân đầm ấm,

Trong mây kinh và trong gió nguyện cầu.

. . .

Hoan hô cao trường thọ đến vô biên... (Trường thọ)

 

        4. Thánh Nữ Đồng Trinh và Người Thơ :

        Tìm hiểu thơ tôn giáo Hàn Mặc Tử, ta không thể quên bài “Ave Maria” (Thánh Nữ đồng trinh) người nữ tuyệt vời, lung linh ánh đẹp và chiếu rạng người thơ.

        Thi sĩ khai bút bằng lời chào trang trọng cung kính :

Như song lộc triều nguyên ơn phước cả.

Đây là lời chúc tụng đặc biệt ? đông mà anh táo bạo dùng để thay thế lời sứ thần Gabriel khi xuống truyền tin cho Thánh nữ :

        Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc Thiên Chúa ở cùng người (Luca 1, 28) (18)

        Trang Thánh Kinh vô giá “mầu nhiệm truyền tin” này đã được bao nghệ sĩ, thi sĩ chiêm niệm và sáng tác với muôn vàn tác phẩm nghệ thuật với các đường nét độc đáo. Một Raphael, một Michel-Ange từ thời Phục hưng phương Tây đã để lại cho nhân loại những hoạ phẩm được trân trọng cho đến hôm nay. Việt Nam, ta có thể tự hào về một Hàn Mặc Tử có thể đứng ngang hàng với thế giới trên lĩnh vực tôn giáo này.

Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel

Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có ngje náo động cả muôn trời.

        Trong hoan hỉ, huyền diệu, thi nhân hướng về Maria trinh nữ “Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng” và “Trí, miêu duệ cuả muôn vì rất thánh” đang “Run như run hơi thở chạm tơ vàng” nhưng thiết tha vì “Lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”.

        Người Trinh nữ chàng không xa lạ, vì chàng đã mường tượng gặp một lần trên bờ biển Quy Nhơn khi gặp nạn.

Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn

Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi,

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm lụy vừa trãi qua dưới thế.

Và với chuổi hạt kinh lần, thi sĩ gần gũi trìu mến với Mẹ biết bao :

Đây rồi, đây rồi chuổi ngọc vàng kinh

...

Là Nguồn Trăng yêu mến Nữ Đồng Trinh

Là Nguồn Đau châu lụy Nữ Đồng Trinh...

        Mẹ Đồng trinh và cũng là Mẹ Sầu bi (Pieta) (19) dưới thập giá âu yếm ôm người con yêu dấu ; Mẹ yêu thương dìu dắt Hàn Mặc Tử vượt qua biển đời. Thi sĩ luôn ngất ngây, thơ đấy ứ, bởi chưng yêu chuộng “Mẹ Sầu bi”, nơi khác :

Ta cao ngâm giọng vô cùng thanh thoát

Khiến châu thân rung động thể tơ trăng

Toan ngất đi trong cơn mê khoái lạc

Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng... (Nguồn thơm)

Tràng hạt luôn có bên anh, trong túi anh, ướp đời anh, những kinh kính mừng bạn hành trình với anh, đưa anh đi trong hương thơm... Tràng chuổi kề cận chia ngọt sẽ bùi với anh hơn cả cây bút thơ nữa, anh bình tỉnh thổ lộ với Nguyễn Bá Tín tới thăm : “Lúc này anh không lần hạt được nửa, viết đã khó khăn lắm rồi” (20). Ta nghe có một niềm đau se buốt khi nhận ra những nhón tay thi nhân đã co rút lại, vô cảm với những gì anh thân thương

“         Trong trạng thái xuất thần, bài Ave Maria đưa anh đi rất xa trong cõi trời mênh mông mơ ước, pha trộn mộng và thực với những hình ảnh quen thuộc cuả Đức Maria, của sứ thần Gabriel. Ave Maria, Reo như châu ngọc, thơm tho như hoa hương, sáng như thất bảo, làm xôn xao tinh tú, náo động muôn trời và vạn vật.

        Ave Maria dài bất tận mà “thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu”...”là lời kinh riêng Hàn Mặc Tử dâng cho Đức Mẹ Việt Nam, một sáng tạo độc đáo từ tấm lòng đứa con thảo hiền, từ nét riêng linh hồn đã nhận được, từ ơn lạ đã đắm say... Lời kinh ấy biểu lộ sự trưởng thành nhân cách trước nhan Thượng đế, diễn tả chiều sâu tâm hồn đã đạt được, trong đó linh hồn để Thiên Chúa chiếm đoạt, thu hút và phó thác vào cung lòng Thiên Chúa trong cõi đời đời... Hành vi ấy không làm cho tâm hồn nghèo nàn đi, trái lại càng tràn đầy chìm ngập và no say... Đó là hoạt động của tình yêu, cuả sự hòa nhập trọn vẹn, nâng cánh cho con người đạt tới niềm hạnh phúc đích thực an bình và mảnh liệt.

... Tôi no rồi ơn vũ lộ chan hòa

Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ.

Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh (Ave Maria)

        Hình ảnh người Nữ đồng trinh Maria đã chiếm đoạt trọn vẹn lời kinh yêu mến thi nhân dâng Người. Ngọc đá là vật vô tri còn nhận ra ân huệ Đấng tạo thành “Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh”. Thật là một xác tín thâm sâu đầy nhân bản và tràn trề tin yêu. Người Kitô hữu là Thánh thể kết tinh từ ý muốn cuả tình yêu Thượng đế, được nuôi dưỡng mỗi ngày bằng vũ trụ tạo thành, bằng kinh nguyện, bằng hồng ân, bằng môi say mến thánh Bí tích (21). Những tâm hồn nào biết “buông theo ân sủng” sẽ được lớn lên theo chiều kích vô biên, có lúc linh hồn được dẫn đi thật xa vào một vận hành chưa hề nghĩ tới...

        Chính Hàn Mặc Tử về niềm tin tôn giáo, có lúc đã được đưa đi xa như thế, ân sủng xô đẩy thi nhân đến bến bờ huyền diệu trong cõi vô hình.

... Xa lắm rồi, xa lắm hải dường bao

Ai tới đó mà chẳng nao thần trí

Tòa châu báu kết bằng hương kỳ dị

Của tình yêu rung động lớp hào quang (Siêu thoát)

        Hàn Mặc Tử, một Kitô hữu, một thi nhân, một tâm hồn tôn giáo sâu sắc, trẻ trung bằng kinh nguyện, bằng đời sống nội tâm phong phú luôn khám phá những chiều kích mới lạ trong niềm tin ẩn kín qua những nét khiêm tốn đời thường, hay hơn nữa qua chính niềm đau bất hạnh thi nhân phải trải qua.

Hàn Mặc Tử là Phượng Hoàng đã bay cao trên vòm trời cuả thơ ca Vũ trụ Tôn giáo ít người sánh kịp. Thi nhân lại biết đi vào kho tàng Thánh kinh để tìm cảm hứng. Ta có thể đặt Hàn Mặc Tử ngang với Paul Claudel (1868-1955), nhà thơ văn vĩ đại cuả Pháp ? Người đã từng so sánh : “Vũ trụ và Thánh kinh là cuốn sách viết cả hai mặt . Thiên Chúa hiển hiện giữa chúng ta một cách gián tiếp qua những sự vật hữu hình và trực tiếp bằng cách mặc khải cho chúng ta . Hai mặt cuả cuốn sách đó đều có cùng một sứ mệnh giống nhau” (22).

        Là con chiên ngoan đạo neo bến vĩnh hằng với niềm tin sắt son, Hàn Mặc Tử khẳng định cách tự tín về ơn gọi và sứ mệnh cuả thi sĩ “phải đi khởi mạch thơ ở Đức Chúa Trời”. Thi sĩ không phải là một người thường..., phải đem tài năng ca ngợi Đấng chí tôn và làm cho người đời thấy rõ vẻ đẹp cuả thơ để đua nhau nhìn nhận và tận hưởng ...”

“        ... Beaudelaire thuộc về phái vô thần nên không tin cả chân lý, không nhận chân lý làm tiêu chuẩn cho văn thơ, còn Trí, phải lấy Đức Chúa Trời làm chân lý, làm tiêu chuẩn cho văn thơ. Văn thơ không phải bởi không mà có (Quan niệm thơ viết cho Trọng Miên, Quy Nhơn, Juin 1939) (23)

 

Chương ba : Kitô Giáo trong thơ Hàn Mặc Tử

Nhìn dưới góc độ Nghệ thuật

 

        3.1. Thiên nhiên - Nhệ thuật Tôn giáo cách chung

         Những văn thơ có màu sắc tôn giáo đậm nét đã phân đều hội tụ trong hai tập thơ “Xuân như ý” và “Thượng thanh khí”, nhiều bài đọc lên không hiểu hết được, chẳng những thế ta lại thấy mông lung phiêu dạt vào một không gian xa lạ đâu đâu ngoài thời gian...

“        Thuở sinh thời Hàn Mặc Tử , đã có người không hiểu thơ và mượn chính tác giả cắt nghĩa. Hàn Mặc Tử trả lời: “giải nghĩa văn thơ thực là vấn đề to lớn phức tạp qúa, và cứ như lời thơ tôi làm đó thì phải giải nghĩa bao nhiêu trang giấy ...”. Thấy một cành hoa mà mường tượng ra mùi hương, thấy một làn tinh trắng mà hình dung được cái gì thanh sạch ở thế giới khác là đủ rồi. Vì tất cả thi vị là ở đấy... Người ta cảm biết một cách tự nhiên (24).

        Thật ra, quan niệm của Hàn Mặc Tử không tuyệt đối. Đành rằng thơ được thưởng thức cách tự nhiên, nhưng nếu thơ sử dụng nhiều điển tích, hay thơ thuộc lảnh vực tín ngưỡng, tôn giáo thì việc giải thích thơ là điều cần thiết để có thể cảm nhận sâu sắc thâm thúy tứ thơ và những rung cảm nghệ thuật thơ đem lại. Hàn Mặc Tử khuyên : “Muốn tìm cảm tìm cảm xúc mới lạ , không chi bằng đọc sách cho nhiều”. Thi nhân có hướng đi cho thơ tìm nguồn nơi Thánh kinh, và cả trong kinh kệ Phật giáo nữa. Phượng Hoàng Hàn Mặc Tử vổ cánh bay lên, bay từ phương trời này tới phương trời khác như cõi bao la ngập hương.

Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng

Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất

Bay từ Đao ly đến Đâu suất (25)

Và lùa theo không biết mấy là hương ... (Phan Thiết)

        Nghiên cứu Phật học, tiếp xúc với ni sư để đem vào thơ của mình, chứng tỏ Hàn Mặc Tử là người cởi mở, hòa đồng, hội nhập... Mở đầu bài « Huyền ảo » kỷ niệm Đà lạt, anh phóng bút ghi :

Mới lớn lên trăng đã thẹn thò

Thơm như tình ái của ni cô... (Huyền ảo)

        Sự đơn sơ trong suốt của tâm hồn làm cho anh nhạy bén đọc được ngôn ngữ tạo vật, trăng sao và đồng loại. Được hỏi , thì thi sĩ trả lời : « Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để mà làm thơ thôi, tôi dung hòa cả hai thể văn chương tôn giáo Thiên Chúa và nhà Phật. Đó là chỉ muốn làm giàu cho nền văn chương chung » (26).

        Ta nghe được tiếng nói tạo vật cũng là lời thơ được thi sĩ thăng hoa đầy lên tột bực. Con người là chúa là chủ vạn vật như từ khởi nguyên Thượng Đế đã trao cho... Thi nhân nghe ngóng từng đụng chạm nhỏ, từng sự run rẩy của lá hoa, từng vi tế giao thoa của hai làn ánh sáng:

Hãy qùy nán lại tiếng sao rơi

Khua ánh trăng xanh động khí trời

Gió thổi hay là hoa thở nhỉ

Ô hay người ngọc biến ra hơi (Mơ hoa)

Đang khi mầu nhiệm phủ ban đêm

Có thứ gì rơi giữa khoảng im

Rơi từ thượng tầng không khí xuống

Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim

Sâu lắng qua :

... Những nét buồn tơ liễu rũ

Những lời năn nỉ của hư vô (Huyền ảo)

hòa nhập vào :

Bỗng đêm nay trước của bóng trăng qùy

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu

Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu

Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ (Hãy nhập hồn em)

Cứ như thế, những dòng thơ tràn ngập cả vũ trụ, biến vào vũ trụ, là tiếng nói cuả vũ trụ...

Hàn Mặc Tử đặt thiên nhiên vào thế giới nội tâm của thi nhân, và cả hai vũ trụ đó có một sự tương quan hòa điệu nhịp nhàng :

Ta rình nghe niềm ý bâng khuâng trong gió loãng

Với là hơi thở nồng nàn của tuổi thơ ngây.

        Ngay cái ăn mặc cuả thi nhân chúng cũng giàu có sang trọng, làm cho ta cảm thấy có một chút gì thèm thuồng, hờn ghen... Vũ trụ là cuả con người, được ban tặng nhưng không, mà ta không sử dụng được như Hàn Mặc Tử, không ôm vào lòng một cách sung sướng, hả hê, đầy tự tin như nhà thơ.

Áo ta rách rưới trời không vá

Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng.

        Vì vậy quanh thi nhân « đầy mình lốm đốm những vì sao » rực rỡ như một ông hoàng mà không phải cuả phú vinh trần thế này ban tặng đâu, nhưng là cuả trời, cuả vũ trụ thiên nhiên bốn muà:

Tứ thời xuân, tứ thời non nước

Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang (Nguồn thơm)

hay :

Dồi dào đến toả ra trời phong phú

Không cầu xin ơn huệ cuả Hoàng gia.

Khi cô đơn đau khổ, kiểu tiêu sầu cuả thi nhân cũng phi thường nét kiêu sa :

Tôi phiêu diêu cùng ngàn sao băng

A ha , lòng tôi trăng là trăng

A ha, trăng tràn đầy châu thân (Tiêu sầu)

Đừng nói buồn mà không khí nao nao

Để chơi vơi này bông trăng là gió.

        Trong cô liêu thôn xóm nghèo nàn, cơm nước đạm bạc, trò chuyện rất ít với chú tiểu đồng đơn sơ... còn lại chỉ là im lặng. Im lặng xa, im lặng gần, im lặng với thinh không bao la, im lặng với khoảng không nhỏ của túp lều tranh dột nát. Sự thinh lặng đó để làm cho Hàn Mặc Tử khám phá ra chiều sâu cuả vô biên, chiến thắng sự sợ hãi, chấp nhận cô đơn, và thăng hoa vượt bực, tạo nên một bản đàn, một hợp khúc cuả nội tâm thi nhân và ngoại giới...

Trăng, trăng, trăng, là trăng, trăng, trăng

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

...

Trăng, trăng trăng, là trăng ,trăng, trăng

Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi.

Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi

Tôi lần cho trăng tôi một tràng chuỗi

Trăng mới là trăng cuả Rạng Ngời

Trăng, trăng, trăng, là trăng, trăng ,trăng (Trăng vàng trăng ngọc)

        Niềm tin ướt đãm trăng thơ, rất tự tin , rất lạc quan, một điệu đàn vui đang nhảy múa trong thi nhân và trong ta. Thử hỏi ai trong chúng ta đem Vầng Dương - Ánh Nguyệt ra bán ? Họa nhân, một tài năng, một siêu sao sáng tạo nghệ thuật vì “Hàn Mặc Tử đã phóng thoát cái bản năng loài người, cởi lột được bao nhiêu cốt cách của loài người để mà ăn nhập vào vũ trụ, biến thành một hiện tượng vũ trụ. Người xưa nhận xét : Đó là văn có tiên cốt” (27). Trần Thanh Mại còn đẩy xa hơn “còn thoát lên trên cái tiên cốt ấy nữa. Thi sĩ đã bọc trong vạt áo từng bọc vàng, đã hụp lặn trong những vũng vàng trăng như con thiên nga trong hồ sen, đã đắp trăng mà ngũ một giấc đầy mộng. Thi sĩ đã từng chạy theo phương trời mà hứng những mảnh sao băng rụng...” (28).

 

        3.1. Thơ Tôn giáo - Nghệ thuật Kitô giáo :

        3.1.1. Nghệ thuật vẫn là nghệ thuật suông, vô hồn khi nó chỉ là tác phẩm không dọi soi vào khát vọng bên trong cuả con người. Còn nghệ thuật chân chính có khả năng cứu vớt, đi vào nội tâm làm bừng sáng khát vọng vươn lên cao. Tôn giáo không phải là nghệ thuật, nhưng nghệ thuật nhờ tôn giáo mà nâng cánh. Đường bay thi ca tôn giáo sẽ đưa nhà thơ từ hiện thực đến siêu hình, đến cứu cánh là Thượng Đế, là chúa tể càn khôn, là tuyệt đích của nghệ thuật. Cái thiện mỹ tinh tuyền nơi Thượng Đế và con người nhân loại chỉ là một. Từ mùa Xuân đầu tiên Thượng Đế “dựng nên con người giống hình ảnh Ngài” và ta là con cuả Thượng Đế, Ngài dạy ta gọi Người là Cha. Chân - Thiện - Mỹ tuyệt đối là Thượng Đế, nơi Ngài là nguồn mạch sự trong lành, còn nơi con người, nơi thi nhân thì do nguồn mạch ấy chảy ra, chuyển đến ta, đem vào đời ta những ý niệm tốt đẹp và ta mãi tìm kiếm khát khao cái chân thiên nguyên sơ mỹ miều và tinh khôi đó. Hàn Mặc Tử thâm tín chân lý này khi viết: “Thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết cuả một linh hồn thương nhớ, ứơc ao trở lại trời, là nơi đã sấng ngàn kiếp vô thỉ vô chung với những hạnh phúc tuyệt vời... Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt...”

 

        Phải đi khởi mạch thơ ở Đức Chúa Trời, một Đấng mà thi sĩ nhận lấy như là hết cả mọi sự - Đấng ấy là Đức Chúa Trời. Thi sĩ chỉ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng anh hoa, thế mới là mãn nguyện” (29).

Nên ta thấy trong thơ Hàn Mặc Tử thường hay quay trở về với cội nguồn với mùa Xuân đầu tiên, với Thượng Đế, “là căn nguyên mọi nghệ thuật, châu báu mà con người đời sau đã đánh mất trong biển thời gian mà chỉ có giống thi sĩ là cố công ngụp lăn mà tìm” (30).

Thuở ấy càn khôn mới dựng lên

Mùa thơ chưa gặt tốt tươi lên

Người thơ phong vận như thơ ấy

Nào sẽ ra đời ngọc biết tên (Xuân đầu tiên)

        Chính tư duy tôn giáo đã làm cho sáng tác của Hàn Mặc Tử có một cấu trúc nội tại trong toàn tác phẩm... là công cụ hữu hiệu để nâng nghệ thuật tuyệt vời cuả thi nhân... Trong “đau thương”, Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật như là nguyên tội, là phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Bệnh tật là sự tham gia vào công đức cứu rởi, mà nới liền người bệnh là bản thân Chúa “Nhập-thể-làm-người” giữa cộng đồng nhân loại... Khi đi tìm giải pháp của đau thương, Hàn Mặc Tử đã đến với Chúa, với Thượng Đế, đem cái ta của mình hòa lẫn với cái tôi bản thể “như vậy, từ góc độ nghệ thuật tôn giáo,sáng tác của Hàn Mặc Tử một cách vô thức, đã minh họa cho con đường cứu rỗi của Tiên Chúa giáo” (31).

        Con người được cứu chuộc bằng giá máu con Thiên Chúa trên đồi Canvê, để đem con người trở lại tình trạng nguyên tuyền như xưa buổi bình minh nhân loại, thì hôm nay Hàn Mặc Tử đặt nhiệm vụ cho mình, của loài thi sĩ là tạo ra những tác phẩm tuyệt diệu, lưu danh muôn thuở. Người bắt chúng phải mua bằng giá máu :

Không rên xiết nghĩa là thơ vô nghiĩa lý

Hay :

Ta hiểu chi trong áng gió nhiệm mầu

Những hạt lệ của trích tiên đày đọa (32).

        Con đường sáng tạo nghệ thuật của Hàn Mặc Tử trần ai và truân chuyên như chính cuộc đời thi nhân. Thành công trong sự nghiệp và tình yêu chẳng có gì rực rở . Rồi bệnh tật chụp xuống , người thơ như bị muôn ngàn cơn sóng dồn dập nhận chìm hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc điên loạn, dằn vặt, vật lộn với những nỗi đau... nhưng càng về sau nhờ niềm tin Kitô giáo, nhờ tín thác vào Thượng Đế, thơ Hàn Mặc Tử đã vượt khỏi tầm suy tưởng của ta. Chấp nhận cái hữu hạn của thân phận, nhà thơ đã vươn đến vô biên, vô biên mới có thể lấp đầy khát vọng thi nhân và sứ mệnh cao cả nhà thơ phải đảm nhận. Từ đó thơ Hàn Mặc Tử bay vào cõi siêu hình mầu nhiệm với tinh thần Kitô giáo đúng nghĩa. Các nhà nghiên cứu đang trên đường khám phá cái tuyệt diệu của thi sĩ, còn chính Hàn Mặc Tử giữ lấy nét nghệ thuật của thi nhân là “cái tinh thần Việt Nam, cái tinh thần Đông phương rung cảm tâm hồn người ta ở cái đẹp kín đáo, cái tình sâu sắc, cái buồn thấm thía...” (33). Và khi đi vào nghệ thuật :

Đây là tất cả người anh tiêu tán

Cùng trăng sao bàng bạc xứ say mơ

        Hàn Mặc Tử viết : “Tôi làm thơ, Nghĩa là tôi yếu đuối qúa. Tôi bị cám dỗ. Tôi phản lại tất cả những gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật. Và cũng nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên. Nàng đánh tôi đau qúa, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú. Có ai ngăn cả được tiếng lòng tôi ?” (34).

Có lúc, ở Hàn Mặc Tử thơ được đồng hóa với lời cầu nguyện : “Thần Khí đỡ đần sự yếu đuối của ta. Vì cầu xin thế nào cho phải, ta nào có biết. Song, chính Thần Khí chuyển cầu cho ta, bằng những tiếng rên khôn tả xiết” (35). Cảm nghiệm được hồng ân tuôn trào qua những lúc tiếp xúc thân mật với Chúa, đó có thể là những lời van lơn đầy nước mắt cầu xin cho khỏi bệnh, hay là tâm tình chấp nhận đầy tinh thần phó thác “xin vâng”, mà không khỏi gây cho thi nhân một sự giằng xé nội tâm mãnh liệt, điên cuồng, đau đớn đến rướm máu, Hàn Mặc Tử thành thật ghi :

... Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết

Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh :

Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết

Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh. (Rướm máu)

        Bị dìm ngập vào biển thương đau như thế, tự thân tác giả phải ngoi lên, vươn lên để hớp lấy khí sống và hướng về sự sống vô biên, vĩnh hăng... cho nên thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết cuả một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời, là nơi đã sống ngàn kiếp vô thủy vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt (36).

        Đời thi nhân có nhiều mây mờ thật, những đám mây đen che khuất vầng dương, làm cho Hàn Mặc Tử cực nhọc mò mẫm, chới với. Nhưng ánh sáng niềm tin chẳng hề phản bội thi nhân. Từ đau khổ vô tận cuả bệnh hoạn, Hàn Mặc Tử đã tìm, đã khám phá ra nguồn thi cảm mới - đó là nghệ thuật thơ đặc trưng cuả thi nhân : từ vực sâu cuả nỗi đau lời cầu cuả anh thăng hoa, nếm cảm hạmh phúc, đưa tư tưởng thơ ca cuả thi nhân đến những vùng trời huyền diệu.

        Hàn Mặc Tử viết : “Tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng. Anh sẽ thấy hơi đàn lã lướt theo hơi thở cuả hồn tôi... Và anh sẽ cảm giác lạ nhìn không chớp mắt một tia sáng xôn xao tại có vì sao vở. Những thứ ấy là âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rên vang dưới ngòi bút” (37).

        Phải chăng đau khở thanh luyện tâm hồn, sự tinh tuyền từ Thượng Đế đã tràn qua nơi tâm hồn trong sạch đó, được dự vào sức sống cuả Thượng Đế với nỗi lòng của một người con “Trí, miêu duệ của muôn vì rất thánh”, hiệp nhất với Thượng Đế, hiểu được Thượng Đế. Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời những vần thơ tôn giáo, những vần thơ của thế giới nguyện cầu, cung chiêm, khám phá được nét trinh nguyên của nàng từ “Nguồn thơm” sáng tạo.

        3.1.1. Bài “Ra đời” với muôn vàn cảnh sắc thiên cung đang “bay những tiếng tung hô Thánh đức”. Thi khúc chịu ảnh hưởng của văn khải huyền đậm nét. Tác gỉa được ơn thị khải những những sự trên trời nơi ngai tòa vinh quang Thiên Chúa.

Muôn thần phẩm trong lâng lâng chầu chực

Ánh hào quang chan chói ngất lưu ly

Rồi tác gỉa sững sốt :

Ôi, cao sang khôn ví trọng ai bì

Trên nước cả có muôn vàn châu báu.

Nhạc thần trôi râm ran rung động cả điện thờ, các thánh phủ phục trước linh ngai tung hô :

Ôi thánh thay, thánh thay, thánh thay (Ra đời)

        đàng trước ngai thì như một biển lưu ly tựa hồ thủy tinh... đêm ngày tiếng hô không ngớt: Thánh, Thánh , Thánh... (Kh 4, 8) (38)

        Nhạc sĩ Hải Linh đã dày công chọn bài “Ra đời” phổ nhạc và điều khiển, nâng thơ Hàn Mặc Tử vào lảnh vực nghệ thuật cao hơn nữa, mà vốn thơ cũng đã là nhạc rồi. Với những nhạc cụ rất hiện đại, dàn hợp xướng đã khéo phối khí đưa dòng nhạc từ mơ hồ xa xôi của “một chiều xanh huyền hoặc” thuở Địa đàng cám dổ... vút bay đến Thiên cung tràn ngập ánh hào quang chói lói, tràn ngập tiếng tung hô... Thế mà, Ngôi Hai vì tình yêu con người đã bỏ ngai vàng vinh sang để làm người như chúng ta. Mầu nhiệm “Ra đời” cũng làm cho Trời trở thành :

Rất trọng vọng, rất thơm tho man mác,

Rất phương phi trên hết cả anh hoa. (Ra đời)

        Vẫn dòng thơ ấy, cảm hứng tôn giáo đã đẩy ngọn bút Hàn Mặc Tử lướt nhẹ trên đường bay, càng lúc càng mãnh liệt, Ave Maria Thánh Nữ Đồng Trinh, Thi thánh dâng Mẹ Việt Nam

Như sóng lộc triều nguyên ơn phước cả

Dâng cao thần nhạc sáng hơn trăng

        Bao la qúa, hùng vĩ qúa, sang trọng qúa. Trên trời sao qùy chầu ơn phước, dưới đất biển mênh mông dâng thần nhạc, vũ trụ tràn ngập trăng sao. Xem có người nữ nào được ca tụng như thế trên trần gian .

Trí miêu duệ các thánh, đau khổ nhiều, dòng lệ rưng rưng, nhưng sốt sắng say sưa

Giọng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ

Bút tôi reo như châu ngọc đền vua

Trí tôi hớp bao nhiêu là khí vị

Và trong miệng ngậm câu ca huyền bí

Và trong tay nắm một nạm hào quang.

        Dòng lệ cảm động đã biến thành suối thơ miệng thao thao không ngớt, bút reo lên nhảy múa, lời thơ dồn dập như bị ngợp, lúc miệng ngậm câu ca huyền bí; chắc hẳn câu ca này chỉ có thi nhân mới bật mí cho chúng ta hiểu phần nào mà thôi. Và đôi tay không phải là dấu hiệu bệnh hoạn nhưng là đang “nắm một nạm hào quang”.

        Trong phút miên man say sưa ấy, Hàn Mặc Tử lần đến bên sứ thần kính cẩn thưa :

Hởi sứ thần Thiên Chúa Gabriel

Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú ?

Người có nghe náo động cả muôn trời ?

        Giây phút trọng đại chờ đợi ý kiến người trinh nữ làng Nagiaret để Ngôi Hai Nhập thể, giây phút linh thiêng nhiệm mầu giữa Trời và Đất, thời gian như lắng đọng vì cả vũ trụ, nhân loại , thiên thần chờ mong, Thiên Chúa cũng chờ mong... Tất cả trầm lắng trong lăng im sâu thẳm. Thế nhưng, Hàn Mặc Tử thi sĩ của chúng ta nhận ra giây phút vô biên nầy đã làm “xôn xao muôn tinh tú” và “náo động cả muôn trời”.

        Cung bậc nghệ thuật tôn giáo ở đây đã lên đến đỉnh cao trong tác phẩm Truyền tin (39), khi ta chiêm ngắm người trinh nữ khiêm tốn chắp tay cầu nguyện bên vị thiên sứ nghiêng mình cung kính chờ đợi câu trả lời ... thì đồng thời ta cũng nghe luôn sự xôn xao của toàn vũ trụ và vẻ náo động thánh thiện của muôn thiên thần cánh khép qùy rung rinh. Tài năng sáng tạo, tưởng tượng qủa có một không hai nơi nhà thơ công giáo Hàn Mặc Tử.

        Thi phẩm Ave Maria, đoạn cuối có 4 chữ :

        Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, nghe hay, trang trọng, nhưng xa cách khó hiểu, nếu không được giải thích ta sẽ không thưởng thức cho hết hương vị thi anh của bài thơ. Qua hồi ký “Hàn Mặc Tử, anh tôi”, Nguyễn Bá Tín viết : “Lòng anh luôn tràn đầy cảm nghĩ yêu đương, chỉ một biến cố nhỏ, nhạy bén cũng khơi động mạch thơ anh ào ạt tuôn ra như suối... thơ anh vì vậy mang nhiều cảm ứng, nhiều từ ngữ lạ lùng khó hiểu... Chữ Phượng Trì thỉnh thoảng thấy xuất hiện trong nhiều bài thơ của anh. Nhân đi coi phim Tàu “Hỏa thiêu Hồng liên tự” trong phim có đoạn nhân vật anh hùng Cam Phượng Trì phi thân lên ngọn núi rồi lấy đà dùng thuật phi hành bay lên mất dạng trên trời cao. Người tình là Diệp Tiêu Thanh chạy đi tìm cất tiếng gọi : Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì.

        Hai chữ “Phượng Trì” ám ảnh anh một cách kỳ lạ say đắm... Hôm sau anh lại trốn đi xem phim. Anh nói : Phượng Trì cái tên thật là tuyệt, nghe như bay lên. Bay lên cao hay qúa”.

        Hai tiếng ấy đã tạo cho anh một ý niệm bay về trời mà trong bài Ave Maria ở đoạn cuối anh lặp lại 4 Lần một cách gắn bó thiết tha :

Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì, Phượng Trì

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu

Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang

(Ave Maria)

        Đoạn cuối này, anh phỏng theo bài hát rất quen thuộc hồi đó trong nhà thờ. Bài « Au ciel au ciel » (Cantiques de la jeunesse) mà cũng là bài hát trong gia đình, cha tôi dạy các con hát với cây đàn harmonium nhỏ :

Bài :

J’irai la voir un jour

Au ciel dans ma patrie

Oui j’irai voir Marie

Ma joie et mon amour

*Au ciel, au ciel, au ciel

J’irai la voir un jour

Tạm dịch :

Ngày kia con sẽ gặp Người

Trên trời nơi quê hương yêu dấu

Mai kia con sẽ gặp Người, Maria

Là hoan lạc và tình yêu của con

*Trời quê, trời quê thiên quốc

Mai kia con sẽ gặp Người

Mai kia con sẽ gặp Người...”

(Nguyễn thị Tuyệt)

        Anh thích chí khi tìm được hai chữ Phượng Trì để thay thế « Au ciel , au ciel, au ciel » “ mà Phượng Trì lại rất gần gũi với biểu tượng Phượng Hoàng của anh (40).

        Lảnh vực tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử thì bàn đến chừng nào là cho vừa

        Ave Maria là tác phẩm để đời, bài thơ dài nhất, gợi hứng cho biết bao nhạc sĩ lên cung đàn, đã làm rung cảm bao tâm hồn trên thế giới...

        Sự giao duyên tuyệt vời giữa thơ và nhạc, là sự đồng cảm sâu sắc giữa các tài danh. Trong đó phải trân trọng nhắc đến tài năng Hải Linh. Nhạc sĩ ưu tú này đã phổ nhạc từng đoạn trong bài Ave Maria từ năm 1956 tại Pháp và hoàn thành vào năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh để trình diễn vào dịp bế mạc năm Thánh Mẫu thế giới năm 1988. Những bản hợp xướng khác nhau như « Ra đời », « Đà Lạt trăng mờ » dòng nhạc độc đáo với phong cách riêng, Hải Linh trổi vượt lên các nghệ sĩ khác rất xa...

        Nhạc sĩ Phạm Duy cũng đã để công nghiên cứu thơ Hàn Mặc Tử trong suốt một năm, nhiều thi khúc trãi dài trong cuộc đời Hàn Mặc Tử , đã được trình diễn tại Mỹ (1993). Phạm duy không loại trừ bài Ave Maria, mặc dầu ông không đồng đạo với thi sĩ... Với nhạc cụ tối tân hiện đại, âm nhạc nghệ thuật được các tài danh Hải Linh, Phạm Duy sử dụng đã đưa thơ Hàn Mặc Tử vào không gian rất lạ và đi sâu vào lòng người mà tưởng như không có gì ngăn chặn được. Nghệ thuật âm nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử là « trăng sao gấm vóc », là huyền bí, anh linh, diệu kỳ... mà cũng có lúc rất điên, rất dại... rất phong phú giàu có tràn ngập khắp không gian, mà chỉ vừa khua nhẹ tay là đã vơ lấy « cung cầm nguyệt mênh mang »,

  Chứa chan ly tao giây sửng sốt

... Nên đường trăng sáng láng tự bao giờ

... Nào trân châu, nào thanh sắc cho màu,

  Dâng hết cả, Thanh âm dường tụ khí

  Hồn ta đây bất diệt với Hà sa...  (Trường Thọ)

        Nguồn thơ văn trào dâng bất tận , ngất ngây, đấy ứ trong hồn thi nhân cũng như của « lòng vua chúa và lê thứ »... Niềm vui hay nỗi đau đến tột cùng vẫn có khả năng mở tung mọi biên cương. Ở đây tình yêu người Nữ Đồng Trinh với thi nhân luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu làm

... Vỡ lỡ cả muôn ngàn tinh đẩu,

cho đê mê âm nhạc và thanh hương.

        Thơ nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử đã nhờ tôn giáo và niềm tin chấp cánh, khát vọng siêu thoát hòa nhập với Thượng Đế trong thế giới vĩnh hằng vượt qua khắc nghiệt của cuộc sống, nỗi đau của bệnh hoạn, hướng đến cõi siêu linh thiên đàng vô tận...

        Hàn Mặc Tử « Thi sĩ Đồng Trinh » (Nguyễn Thụy Kha) tâm hồn thanh khiết, lời thơ trong sáng, yêu đời với nỗi đắng trăn trở, vượt qua, khắc phục... và khi gặp được nguồn thơ, ngọn bút thi nhân đã trở thành lời suối reo vui như thơ nhạc châu báu của cung điện đền vua, vương giả... Hồn thơ Hàn Mặc Tử chưa ai hiểu hết và chưa có ai bắt kịp người Phượng Hoàng Hàn Mặc Tử đang mãi tồn tại trong những vần thơ ngập hương thơm tôn giáo... Tôn giáo, vấn đề lớn của nhân loại hôm qua, hôm nay và mãi cho thế hệ tương lai

        Để kết chương tôn giáo nghệ thuật này, xin được lấy lại những dòng ca tụng Hàn Mặc Tử của nhà phê bình Trần Thanh Mại mà tôi nghĩ cũng không qúa :

Hàn Mặc Tử đã phóng thoát cái bản năng loài người, cởi lột được bao nhiêu cốt cách loài người để mà ăn nhập vào với vũ trụ...”

        Được phú giữ một nghệ thuật hết sức tài tình, văn thơ Hàn Mặc Tử có thể ví như lời Tô Đông Pha đã tự ví văn mình : một nguồn nước chảy thao thao, quanh co uốn khúc, có khi lách nhẹ qua các áng hoa luống cỏ, nhưng đến khi cần cũng đục xẽ nổi cả những tảng núi, sườn non, đánh đổ tất cả cái gì cản trở. “

        Tài nghệ diễn tả ấy sở dĩ được thế là vì thi sĩ có một khoa dụng ngữ tuyệt phẩm dồi dào, nó dung hòa cả những danh từ xưa cả nay, những ngôn pháp Á và Âu, lại ảnh hưởng cả hai nguồn văn hóa Phật giáo và Thiên Chúa giáo nữa...” (41)

 

        Thay Lời Kết

        (Thư kính gởi thi sĩ Hàn Mặc Tử)

 

        Kính thưa Tiên sinh,

        Tôi đã dõi theo Tiên sinh từ tiếng khóc chào đời bên mẹ cha với lời vỗ ru chan hòa của biển Đồng Hới, đã đi với Tiên sinh qua nhiều bến trăng, hoan hỉ khi thành công, se thắt khi bệnh hoạn, chạy theo Tiên sinh tìm con trăng lạc, rồi ngập đầu chới với trong trăng kinh hoàng nghe tiếng rú rợn rùng khi Tiên sinh bắt gặp trăng tự tử ở lòng giếng...

        Nhưng thưa Tiên sinh, Tiên sinh đã không để tôi thất vọng vì nhiều lần bên Tiên sinh tôi cũng đã trò chuyện, lần hạt, khỏang không bao phủ chúng ta là bình an thanh thoát, là tín thác mến yêu...

Tại Quy Hòa, sống bên Tiên sinh những ngày cuối đời ; bệnh hoạn không còn là nỗi khiếp sợ, Tiên sinh thừa an tỉnh « để nghe tơ liễu run trong gío » xao xuyến đón lấy hương vị biển khơi, đêm đến « ngắm trăng qua kẻ lá dừa » trong khoảng không của trời đất mông mênh.

        Trong ngôi Thánh đường tráng lệ, yên tỉnh, có lúc Tiên sinh lặng chìm đi trong suy tư nguyện cầu, hoặc lâng lâng thả hồn bay bổng khi nghe giọng ca thánh thót của các vị nữ tu trong khúc hát trang trọng « Hosanna, Hosanna » (Hoan hô, hoan hô Thiên Chúa trên các tầng trời). Nhưng chẳng có gì trên trần thế này lưu giữ Tiên sinh được nửa. Tiên sinh muốn đi tìm ánh sáng muôn năm thôi “

        Và Tiên sinh ra đi.

        Tiên sinh đã đi rồi, trên 50 năm...

        Cũng từ ngày đó, thăng trầm cuộc sống tôi xa Tiên sinh...

        Hôm nay, trở về bên Tiên sinh, tuy muộn màng nhưng có vẫn hơn không. Thành kính tôi thắp nén hương trên mộ phần, tôi nghe biển hát thơ Tiên sinh, tôi nhập vào làn mây trắng đọc vần thơ tưởng nhớ Tiên sinh. Còn Tiên sinh lặng lẽ ngủ yên dưới bàn tay Trinh Nữ Ban ơn. Người mà Tiên sinh hằng yêu mến.

        Kính thưa thi nhân Tiên sinh,

        Phải qua 50 năm, bây giờ Tiên sinh mới sống lại bằng hồn thơ và niềm tin bất diệt. Bây giờ, thế hệ sau nhìn về Tiên sinh như vì sao lấp lánh chân lý cuộc sống.

        Đời- Đạo- Định mệnh và Thượng đế.

        Đời đạo hòa nhập trong một con người : Kitô hữu

        Tài năng phát triển trong một nhân cách : Thi nhân

        Định mệnh như là ơn gọi vào cuộc đời

        Thượng đế : qua niềm tin đưa đến hạnh phúc vĩnh hằng.

        Nhờ niềm tin Kitô giáo tiên sinh đã gập được bình an trong chính niềm đau cuộc đời... Khát vọng Tiên sinh bao giờ cũng vô biên, vô biên... Linh hồn Tiên sinh vẫn hoài tìm kiếm cho đến lúc được yên nghĩ bên trong nguồn suối Bình an.

        Hàn Mặc Tử, Tiên sinh quý mến,

        Cuộc đời hữu hạn, những năm bệnh tật xót xa, giờ đây nhìn lại thật chẳng là gì so với thời gian vĩnh hằng Tiên sinh hằng mơ ước. Nhưng với thời gian khắc nghiệt đau thương này, Tiên sinh đã để lại cho đời một gia sản : Con người và Thi văn Tiên sinh.

        Giờ đây hồn thơ Tiên sinh tồn tại, nổi lên những đường nét độc đáo tài hoa. Phải chăng vì nguồn thơ Tiên sinh đã neo bến Hằng Sống ?

        Tôi kính cẩn chào Tiên sinh với lòng biết ơn. Tôi cũng rất hãnh diện khi cao ngân những dòng thơ tuyệt đẹp của Tiên sinh đã trở thành sóng nhạc. Tiên sinh đã đi vào nền nghệ thuật thi ca thế giới... Cho hay rằng những gì lên cao sẽ hội tụ. Nghệ thuật chân chính cứu thoát chúng ta.

        Hiệp thông trong cùng một niềm tin, một chân lý. Tin vào mình, tin vào cuộc đời, tin vào Thượng đế. Đó là viên châu ngọc của cuộc sống. Phải không thưa Tiên sinh ?

Trân trọng kính chào

Nguyễn Thị Tuyệt

 

Chú Thích :

1.Xứ đạo Tam Toà được thành lập sau biến cố Văn Thân 1885

2. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử, Anh tôi, xí nghiệp in Tân Thành, TP HCM năm 1991, tr. 57

3. Nguyễn văn Xê, Hàn Mặc Tử, Thơ và Đời, nxb Văn Học 1993, tr.193

4. Nguyễn Bá Tín, Sđd, tr. 21,49

5. Nguyễn Bá Tín, Sđd, tr. 104

(*) Các ông Quách Tấn, Chế Lan Viên... không có ai đề cập đến Hàn Mặc Tử bị bệnh tâm thần cả.

6. Nguyễn Bá Tín, Sđd. tr. 106

7. Châu Hải Kỳ - Văn 1967, tập 1, tr. 77

8. Nguyễn Thụy Kha - Thi sĩ đồng trinh, nxb Đà Nẵng 1993

9. Mặc Dữ (Khoảng 450-400 TCN) : Đại triết gia Trung Hoa, lập Mặc giáo khiêm ái : tất cả thiên hạ đều thương yêu nhau như anh em.

10. Trần thị Huyền Trang, Hàn Mặc Tử, Thơ và Đời, tr. 238

11. Chú Hành (Phạm Hành) : Chú tiểu đồng ngày trước đã theo Hàn Mặc Tử đến các nơi chửa bệnh như Gò Bồi, Ghềnh Ráng... giúp Hàn Mặc Tử các việc lặt vặt cơm nước, giặt giũ , mua báo đưa thư...

12. Trần Thanh Mại, Hàn Mặc Tử, tr.120

13. Kinh Thánh Tân Ước, Thư thứ nhất của Gioan (Gioan 4,16)

14. Lữ Huy Nguyên, Hàn Mặc Tử, Thơ và Đời, nxb Văn Học 1993, tr.153

15. Lữ Huy Nguyên, Sđd, tr. 154

16. Trần Thanh Mại, Sđd, tr. 130

17. Trần Thanh Mại, Sđd, tr. 130

18. Thánh Kinh Tân Ước, Tin Mừng theo Luca

19. Michel-Ange (1475-1564) : người đã để lại tác phẩm điêu khắc Piéta (Mẹ Sầu Bi) kiệt tác của nhân loại

20. Nguyễn Bá tín, Sđd,tr. 133

21. Bí tích : như Bí tích (Thanh Tẩy). Bí tích là dấu bề ngoài chỉ và làm ơn thiêng liêng bên trong khi thụ nhân nhận lãnh. Ví dụ : Bí Tích Thanh Tẩy, việc dội nước bên ngoài chỉ việc thụ nhân tái sinh, được ơn tha tội.

22. Báo La Vang, tháng 3/1963,tr.65

23. Lữ Huy Nguyên, Sđd, tr. 155

24. Trần Thanh Mại, Sđd, tr.132

25. Đao Ly, Dâu Suất : hai cõi trời, theo thuyết nhà Phật

26. Trần Thanh Mại, Sđd, tr.168

27. Trần Thanh Mại, Sđd, tr.166

28. Trần Thanh Mại, Sđd, tr. 166

29. Lữ Huy Nguyên, Sđd, tr. 154- 155

30. Đỗ Thúy Lai, Con mắt thơ, nxb Lao Động 1992

31. Đỗ Thúy Lai, Sđd, tr. 157

32. Lữ Huy Nguyên, Sđd, tr. 154

33. Trần Thanh Mại, Sđd,tr. 41,45

34. Trần Thanh Mại, Sđd, tr. 41,45

35. Kinh Thánh Tân Ước, Thơ gởi giáo đoàn Rôma 8,26

36. Hàn Mặc Tử, Lữ Huy Nguyên, Sđd, tr. 154

37. Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại, Sđd , tr. 55

38. Kinh thánh : sách Khải Huyền và sách Tiên tri Isaia

39. Truyền tin : Kinh Thánh Tân Ước, Luca 1,26-38

40. Nguyễn Bá Tín, Sđd, tr. 106-108

41. Trần Thanh Mại, Sđd, tr. 166,168

 

Tài Liệu Tham Khảo

 

1. Trần Thanh Mại, Hàn Mặc Tử, Nxb Tân Việt, 1957

2. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt nam, xb 1967

3. Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử anh tôi, XN in Tân Thành TP HCM, 1991

4. Trần thị Huyền Trang, Hương thơm và mật đắng. 1992

5. Lữ Huy Nguyên, Hàn Mặc Tử thơ và đời, Nxb Văn học. 1993

6. Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ. Nxb Lao Động. 1992

7. Lm Nguyễn Thế Thuấn, Kinh Thánh Cựu Tân Ứơc, xb 1975

8. Hải Linh, Băng nhạc trường ca Ave Maria, TP HCM 1988

9. Phạm Duy, Băng nhạc trường ca Hàn Mặc Tử, Mỹ 1994

Nguyễn Thị Tuyệt
Huế 1994

Xin chân thành ghi ơn Giáo viên hướng dẫn Lê Tài Thuận đã tận tâm hướng dẫn để tôi hoàn thành khóa luận này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét