Công thức tâm linh của hermann hesse
Lời Giới Thiệu của Dịch Giả: Stefan BORBÉLY – Giáo sư khoa văn học tại đại học Babes-Bolyai là thành viên sáng lập Hiệp hội Nhà văn chuyên nghiệp của Rumani (Aspro), Cơ sở văn hóa Equinox và là một thành viên của Hội Nhà văn của Rumani (chi nhánh Cluj), Hiệp hội Văn học so sánh Rumani. Giáo sư Stefan Borbely đã viết và xuất bản một số công trình nghiên cứu về Hesse, được tập hợp trong cuốn The Steppenwolf’s Dreamvà Starting from Nietzsche.
Công trình Công thức tâm linh của Hermann Hesse của ông được công bố lần đầu tiên trên tạp chí học thuậtPhilologica Jassyensia[1] của Học viện Rumani ở Iassy với nhan đề: Stefan Borbely: Hermann Hesse’s Spiritual Formula. Hai năm sau, công trình này được chỉnh sửa để đáp ứng với yêu cầu học thuật của một bộ yếu lược văn học quốc tế về tiểu thuyết thế kỷ XX, được hiệu đính bởi giáo sư Micheal Sollar tại Đại học Texas:The facts on file companion to the world Novel, 1900 to the present[2]. Đây là một bộ sách lớn với hơn 600 mục là những bài viết học thuật điển hình của rất nhiều học giả nghiên cứu văn học trên thế giới về các tác gia -tác phẩm văn học thời kỳ hiện đại.
Nghiên cứu này của Borbely xem xét những ảnh hưởng khác nhau đã để lại dấu ấn sâu sắc trong tác phẩm của Hesse; tình bạn của ông với Thomas Mann (Mann xây dựng những chủ đề như mối quan hệ giữa giai cấp tư sản và các nghệ sĩ tự do… vốn cũng được tìm thấy trong tác phẩm của Hesse); đời sống Đông phương với các tôn giáo thần bí; tâm lý các nhân vật của ông; phong cách Nietzsche, Phân tâm học Jung, tâm hồn bị cầm tù giữa ánh sáng và bóng tối; ảnh hưởng trái ngược của người mẹ và người cha; chiến tranh thế giới… trong tiểu thuyết của Hermann Hesse.
Hermann Hesse trong Sương Mù (In the Fog: Hermann Hesse) (họa sĩ Despina Papadopoulou)
Hermann Hesse là đại diện xuất sắc của trường phải hậu-lãng mạn, suy đồi hiện đại ở Châu Âu vào nửa đầu thế kỉ XX. Hesse đã xây dựng một tình bạn thắm thiết với Thomas Mann, người được ông chia sẻ những chủ đề văn học, đặc biệt là những chủ đề liên quan đến mối quan hệ giữa trật tự chắc chắn vững vàng của giai cấp tư bản trong sự đối lập với nỗi cô đơn, chủ nghĩa tự do phóng túng, xung năng tính dục ở người nghệ sĩ. Hesse cũng bị thu hút bởi phong cách sống phương Đông và đạo Phật qua những kỷ niệm về gia đình với nhiều thành viên hoạt động với tư cách là những nhà truyền giáo ở Ấn Độ, và qua chuyến đi đến Sri Lanka và Indonesia tiến hành vào năm 1911 cùng với người bạn họa sĩ Hans Sturzenegger từ Schaffhausen. Hermann Hesse đã ghi lại kinh nghiệm chuyến du hành trong nhật ký xuất bản năm 1913(Aus Indien; Từ Ấn Độ), và trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Siddhartha xuất bản năm 1923( bản dịch tiếng Anh năn 1951). Chủ đề phương Đông sẽ được giới thiệu trong sáng tác của ông vì ông cho rằng sự sung mãn và thanh bình kiểu phương Đông có thể tạo ra liều thuốc cho sự u uất, chủ nghĩa tân thời, sự tự xa lánh và tha hóa ở Châu Âu. Sự nổi loạn hay đúng hơn là rối loạn tinh thần, sự mâu thuẫn trong tính cách của ông kéo ông vào nhiều chấn động tâm lí nặng nề, chẳng hạn những cuộc xung đột lặp lại nhiều lần với cha mẹ, một cuộc đào tẩu có dự tính khỏi trường học( được mô tả trong truyện ngắn Dưới bánh xe (1906), bản dịch tiếng Anh Beneth the wheel), một lần cố gắng tự tử (1892) cũng như vài lần ra vào những trung tâm chữa trị thần kinh nơi ông đã tiếp cận với tâm lý học của Jung.
Để bù lại cho sự nhạy cảm và yếu đuối cá nhân, Hesse đã cố gắng tự bảo vệ mình bằng cách xây dựng những bầu không khí phương Đông giản dị xung quanh mình, giữa một nền chính trị hung hăng cuồng bạo ở Châu Âu. Ông rời Đức và chuyển đến Thụy Sĩ năm 1912 (theo sự nghiệp của hình tượng ám ảnh ông là triết gia Nietzsche), từ bỏ quốc tịch Đức năm 1923, chọn làm vườn và vẽ tranh, định cư ở những ngôi làng như Gaienhofen (cùng với người vợ đầu tiên Maria Bernoulli vốn bị rối loạn thần kinh), rồi chuyển tới Montaglola, miền Nam Thụy Sĩ nơi ông cố gắng gắn bó vào sự thanh tao của cuộc sống đồng quê hàng ngày, cho đến khi ông mất năm 1962.
Mặc dù ông kiên quyết cho rằng người nghệ sĩ nên sống một cuộc sống bên lề, tự do phóng túng(kiểu bohemian), bên ngoài những gò bó của chính trị và xã hội, nhưng bài luận ngắn của ông: Ồ! Bạn ơi, không phải giọng ấy, xuất bản tháng 11 ngày 3 năm 1914, trong thời kì chiến tranh thế giới I đã được biết đến rộng rãi như là một lời cảnh báo chống lại lòng căm thù cộng đồng và Đế Quốc Đức. Suốt cuộc chiến tranh, Hesse đã giúp những người dân tị nạn và cam kết chính mình với những hoạt động nhân đạo, và cuối cùng, khi bọn Phát xít lên nắm quyền ở Đức, ông đã như một người tự nguyện lưu vong, và cũng giúp Thomas Mann và những người dân tị nạn khác tìm đường đến tự do.
Bị ám ảnh bởi phong cách Friedrich Nietzsche, ông đã viết nên bản tuyên ngôn nhiệt huyết chào mừng sự kết thúc của Chiến tranh thế giới I và sự bất đầu của kỉ nguyên mới (Sự trở lại của Zarathustra- một lời cho Thanh niên Đức 1919-1920, ấn bản đầu tiên ký tên vô danh), Hesse đã chuyển hóa nhận thức của Nietzsche về mâu thuẫn bổ sung cho nhau giữa nguồn năng lượng “Apollo” và cảm hứng “Dionysos” vào hai bản thể có nhân cách đối cực trong tiểu thuyết Demian (năm 1919, bản tiếng Anh năm 1923), Mùa hè cuối cùng của Klingsor (1920), và Narziss và Goldmund (1930, bản tiếng Anh tên là Cái chết và Tình yêu,1932). Những tác phẩm này cũng thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Hesse đối với tâm lý học phân tích của Jung. Chính tác giả sau đó cũng đã chỉ ra rằng cốt truyện trong Demian đã cố tình tiếp cận quá trình cá nhân hóa điển hình. Sự nghiệp rạng rỡ của Goldmund bên ngoài tu viện trong Narziss và Goldmund cũng tương tự như một cấu trúc cá nhân hóa, với sự bổ sung vào phức cảm tâm lý cơ bản những đặc điểm riêng về huyền thoại mẹ, với một cắt nghĩa có thể phát hiện ra trong chấn thương thời thơ ấu của Hesse. Hesse trải qua sự chữa trị bằng phân tâm học Jung vào tháng 5 năm 1916, khi ông điều trị chứng rối loạn tâm lí tại trại điều dưỡng gần Luzern. Ông gặp một bác sĩ trẻ tên là J.B Lang, người đã tạo ấn tượng mạnh với ông bởi việc điều trị cho ông với phương pháp phi chính thống-phương pháp của Jung dựa trên thông diễn học của biểu tượng và cổ mẫu văn hóa xa xưa. Bác sĩ Lang đồng thời cũng là người khuyến khích Hesse bày tỏ nỗi sợ hãi và mặc cảm của mình ra bằng việc vẽ tranh. Nhà văn sẽ luôn duy trì trung thành phương pháp điều trị này, bằng việc hoàn thành hơn 3500 bức tranh sơn dầu và tranh màu nước, một số trong chúng được sưu tập bởi bảo tàng Hermann Hesse ở Montagnola. Một mẫu của bộ sưu tập uy tín này được mang về Mỹ năm 1999 bởi Bảo tàng Đại học Oglethorpe. Phong cách hội họa của ông đầy màu sắc, theo trường phái Biểu hiện ôn hòa (không triệt để), và được coi là sự biến cách của phong cách của Klingsor, người họa sĩ trong truyện ngắn Mùa Hè Cuối Cùng của Klingsor. Sự phối màu trong những bức tranh này cũng cho thấy sự hỗn độn của nhục cảm và tinh thần nghệ thuật, giới hạn trong ý thức về cái chết và sự diệt vong. Vẽ chân dung bản thân kiểu Dionysos hoang dã bên bờ vực cái chết của mình, Klingsor cố ý chuyển phong cách và màu sắc hội họa của mình thành năng lượng của hủy diệt, đầy nghệ thuật, được truyền cảm hứng bởi sự thôi thúc ma quỷ dâng lên từ thế giới ngầm. Họa trên tác phẩm “Nguồn gốc bi kịch” của Nietzsche,(1871-1872) lấy cảm hứng từ tác phẩm “Thế giới như là ý chí và biểu tượng” của Shopenhauer 1816, chủ đề về sáng tạo nghệ thuật được thai nghén như quá trình suy vi, tự phá hủy- vốn là cấu trúc thường thấy trong nhiều tiểu thuyết của Thomas Mann.
Kiểu nhân vật “rực rỡ” (flamboyant) của Hesse, trong cách hiểu đặc biệt của Nietzsche, là một Ngọ nhân[3]cuồng nhiệt(exuberant) kiểu Dyonisos và là một kẻ tôn thờ Mặt trời, người hướng nghệ thuật của mình ra ngoài khuôn khổ hình thức, vào sắc màu nỗi đau khổ và sự hủy diệt. Nhân vật của Hesse chủ yếu mang sắc thái ẩn dật của những người ưa những nơi u ám, bất chấp sự tự do phóng khoáng cô độc kiểu Bohemien, vốn là tính cách đã đưa họ rời xa những thị trấn và nhà cửa, đi khai phá những không gian rừng núi và thảo nguyên. Như là một hệ quả, Mặt trời hầu hết được đề cập đến trong các tác phẩm của ông với niềm đam mê có tính hủy diệt. Như chúng ta sẽ thấy, sau khi rời lãnh địa tâm linh Castalia, Josef Knecht, bậc thầy trò chơi hạt thủy tinh cũng bị khắc chế bởi sức mạnh của mặt trời mọc. Hình mẫu anh hùng điển hình của Hesse là chống tư sản, tự do phóng túng kiểu bohemien, vô chính phủ, nghệ sĩ và người lang thang, được biểu hiện trong những tác phẩm đầu tay như Peter Camenzind(1914), Knulp(1915) và đặc biệt trong Sói đồng hoang(1927 bản dịch tiếng Anh năm 1929, sửa đổi năm 1963). Sói đồng hoang thiết lập “Kinh thánh” chính cho phong trào phản văn hóa của xã hội mới vào những năm 60 ở Mỹ và Tây Âu. Một ban nhạc nổi tiếng từ California, Sparow, đổi tên thành Sói đồng hoang; bài hát của họ “Born to be wild” phát hành năm 1968 được dựng thành phim Easy Rider. Harry Haller, nhân vật chính bị xã hội ruồng bỏ trong tác phẩm, đã thu hút được những người trẻ chống đối của thập niên 60 chính vì tính cách nửa đàn ông, nửa phụ nữ của anh ta, những tính cách đó được anh ta vượt lên (transcends)bởi những ý nghĩa của tình yêu mà phép nhiệm mầu. Nhiều người hippy của thập niên 60 tự coi họ là những “Sói đồng hoang” với sự thôi thúc vi phạm những sự phân bậc và quy tắc. Họ cũng yêu mến Harry Haller bởi vì anh ấy đã từ chối những giá trị để trở thành người lớn và khát khao nghịch lý được giữ nguyên là một đứa trẻ ngây ngô trong vũ trụ. Nhiều nhân vật được xây dựng trong những tác phẩm lớn của Hesse mang hơi hướng tính cách trẻ con. Tỉnh Castilia không tưởng nơi tập hợp những người anh em ưu tú chơi trò hạt ngọc thủy tinh cũng được mô tả là vùng đất tâm linh trẻ thơ bị bao vây bởi ảnh hưởng trưởng thành vì chính trị và lịch sử. Phong cách dựng hình nghệ thuật theo hướng u sầu, tự do phóng túng kiểu bị xã hội ruồng bỏ luôn đeo đuổi Hesse từ lúc khởi đầu sự nghiệp văn chương của ông. Vả chăng, nó đi vào những câu chuyện của ông như những cấu trúc đối lập giữa sự cứng nhắc cằn cỗi của những người hoạch định xã hội, như người đàn ông trong gia đình, giai cấp tư sản hay những kẻ vô học, và sự hoa mỹ, tâm hồn phong phú của những kẻ lang thang. Hesse cũng có cùng chung mối quan tâm với Nietzche và Thomas Mann về “tính nghệ thuật”, rạng rỡ,( brilliant) thuộc Ý hay nam Địa Trung Hải, như là sự đối lập với sự mờ ảo, u ám của chất Bắc Đức. Trong phản đề này, cái đã giải thích cho nhiều tính cách của những nhân vật chính, cái chất Bắc Đức đóng vai trò của dạng tổ chức, hạn chế, trong khi chất Nam Địa Trung Hải – tương tự như những gì diễn ra trong Death in Venice của Thomas Mann- đóng vai trò của nguồn cảm hứng hủy diệt kiểu Dyonisos của thế giới ngầm. Cấu trúc đối chọi này được dùng bởi Hesse lần đầu trong tác phẩm Knulp, trong đó nhân vật chính là một người đàn ông già sống bên lề xã hội. Knulp lang thang về nơi sinh ra để tìm cho mình một lối đi yên bình tới cái chết và tái hòa nhập vào nhịp điệu đơn giản của tự nhiên. Lão già Knulp luôn luôn là một kẻ lang thang phóng túng, bất chấp áo rách giày mòn, dường như ông ta được trời phú cho một phong cách hùng biện nổi bật và sự xuất chúng của con người. Thời trẻ, Knulp rời bỏ quê hương ở miền bắc để chu du xuống miền Nam, trong sự tìm kiếm niềm đam mê nghệ sĩ. Ông ta chưa bao giờ có một công việc hay ngôi nhà, nhưng lúc nào cũng thành công trong việc làm hài lòng mọi người, bởi vì ông ta có khả năng làm dịu đi sự buồn phiền, nỗi đau khổ và những suy nghĩ u uất. Theo định nghĩa cổ điển và cổ xưa được sử dụng bởi những người Hy lạp Athenaois(thế kỉ 3 trước công nguyên), Knulp có thể là kẻ sống ký sinh, tên phù thủy quyến rũ. Bất cứ nơi đâu anh ta dừng chân, anh ta cư xử như là tấm gương soi cho kẻ khác. Người ta hạnh phúc với Knulp, người xuất hiện để biết mọi người anh ta gặp trên con đường lang thang, khiến người ta cảm thấy đời họ như trở thành ngày hội.
Thật phù hợp, đàn ông, đàn bà và trẻ con (cả động vật) trải nghiệm sự nhiệt tình khi anh ta xuất hiện, đối xử với anh ta tử tế, khuyến khích anh ta ở lại bao lâu anh ta muốn. Trong giới hạn của Nietzsche, Knulp là một Ngọ nhân hoàn hảo, một kẻ quyến rũ không có bóng, nghĩa là với cả sự chân thành chan hòa và sự vắng bóng khổ đau và thói xấu. Hesse đã nói về Knulp và trước đó là Peter Camenzind (1904) rằng họ tiêu biểu cho hình ảnh phản-suy đồi của “con người tự nhiên” được tán thành bởi Jean-Jacques Rousseau. Vì sự thanh thản vui tươi, Knulp cũng xuất hiện –theo Nietzsche- như là một hình ảnh “phản Chúa”, đúng hơn là tương đồng với thần Dionysus, người đến từ thế giới bên ngoài và là kẻ lang thang. Trong chương cuối của tiểu thuyết miêu tả Knulp như là đứa con cưng của Chúa, đang trên đường lên thiên đàng, nơi mà anh ta hi vọng Chúa Cha sẽ cứu rỗi anh ta khỏi những gánh nặng, như là phần thưởng cho việc giúp con người trên trái đất có cuộc sống dễ chịu hơn.
Cái phản đề mang tính lãng mạn giữa sự tồn tại tự nhiên và sự ruồng bỏ xã hội đã đánh dấu thành công bước đầu của Hesse, đó là Perter Camenzind (1904), một tiểu thuyết giáo dục (Bildungsroman),nhân vật chính là thế hệ sinh ra từ một cộng đồng biệt lập, cổ xưa (Nimikon), cộng đồng đó sinh sống trong sự hài hòa bất tận với tự nhiên ở miền núi cao trên dãy Alps. Peter lớn lên với một tín điều rằng không thể có sự khác biệt căn bản nào giữa những con người, hoa lá và cây cỏ, một khi tất cả đều có chung tâm hồn phong phú của vũ trụ.
Lối vào làng (The Way into the Village) (tranh của Hermann Hesse)
Khi lớn lên, sự hiểu biết cổ xưa của Peter trở thành một ý thức hệ nhân đạo dựa trên sự hồn nhiên và lòng vị tha. Anh ta hướng tới một niềm sùng kính cháy bỏng đối với Thánh Francis xứ Assisi, thờ phụng cõi Niết bàn của Phật giáo và sự ẩn dật khổ hạnh trong cuộc sống của Tolstoy, và hát những bài thánh ca chứa chan lòng tôn sùng chung được gọi là Dionysos-Hermes-Eros (tên các vị thần), cái mà anh ta tìm thấy ở rượu và tình yêu đối với Erminia Aglietti, một họa sĩ bí ẩn lớn tuổi hơn.
Khi tiếp cận với “nền văn minh” (trong trường hợp đặc biệt của anh ta, Florence và Italy là mảnh đất màu mỡ của tư sản châu Âu), Peter đã trải nghiệm sự lố bịch của xã hội hiện đại. Cuối cùng hắn đã bị xã hội đó làm cho ô uế khi trở thành một phóng viên lành nghề và hiểu biết hơn về Paris, một thành phố mà hắn nhận thức được như là nơi tập trung của sự mâu thuẫn của con người. Tuy nhiên, những nỗi khổ não đó không thể thay đổi được những tính cách căn bản, sự hài hòa với tự nhiên được thừa hưởng từ những thế hệ cha ông sống ở miền núi cao. Anh ta vẫn còn nguyên vẹn, bất chấp những trải nghiệm cay đắng có liên quan tới những tác động phá hoại của quá trình văn minh hóa, một con người “lạc quan”, toàn vẹn trước những thử thách và sự tiêu cực. Hesse miêu tả anh ta như một Zarathustra mới, người đã đã thỏa mãn sự thúc giục của mình bằng cách rút về sống ở ngôi làng trên cao nguyên, nơi anh quản lý một quán trọ để phụng dưỡng người cha. Đó là nơi anh ta lấy lại được nguồn năng lượng vũ trụ tự nhiên, giản dị và chắc chắn, kết nối anh ta với vĩnh cửu.
Từ biến cố tâm thần năm 1916 sau cái chết bất ngờ của ông bố, tiếp theo là thời gian hồi phục của Hesse trong một dưỡng đường tâm trí, phong cách của nhà văn và sự tạo hình nhân vật dần dần thay đổi và được đa dạng hóa. Những chủ đề liên quan xoay chung quanh nhân vật có mô týp Faust (Faustian), bóng tối nguyên khai trong tiểu thuyết Damian (1919), song song với cấu trúc doppelganger (nhân cách lưỡng thể) hay cặp sinh đôi có hình dáng giống nhau—một chủ đề đã được Nietzsche khai triển.
Chấn động của Đệ Nhị Thế Chiến, sự cứu trợ của Đồng Minh đi kèm với kết thúc của nó đã tạo cho Hesse một niềm tin điên cuồng rằng những sự bất an lớn của lịch sử chỉ có thể tránh khỏi nếu nhân loại sinh ra một nhóm ưu tú với tâm linh cao độ, bao gồm những nhà tư tưởng và nghệ sĩ, người có thể biểu lộ tiêu chuẩn cho số người còn lại và do đó loại bỏ cái ác ra ngoài lề của kiến thức quân bình về xã hội. Hesse cho rằng mỗi người nên nhận diện sự cá nhân hóa của mình, không phải bởi đấu tranh, mà là bởi sự kết hợp của nguồn năng lực tăm tối vào quá trình chuyển hóa theo chuẩn mực đã được xã hội chấp nhận. Ánh sáng và bóng tối – được xem là quyện vào nhau trong một tâm thể bị phân chia – sẽ đóng dấu công thức tâm linh của Hesse qua tác phẩm Sói Đồng Hoang và Narziss und Goldmund. Những yếu tố này được kết hợp với một lưỡng phân khác: ảnh hưởng đối chọi giữa mô týp người cha và người mẹ—đây là những điển hình của trường phái biểu hiện mà phong cách của Hesse đã tiếp nhận lúc bấy giờ.
Đi kèm trong những mối quan hệ xung đột vốn cũng là nền tảng cho tác phẩm của Thomas Mann(Buddenbrooks, Tristan, Tonio Kroger, Death in Venice)là hình ảnh người cha hiện thân cho sức mạnh vững vàng, làm cho mọi thứ ở trở nên có trật tự, khuôn phép. Tình mẹ, mặt khác, được kết hợp với xu thế cảm xúc nồng nhiệt, hướng về nghệ thuật. Trường phái biểu hiện của Đức có chung niềm tin với Schopenhauer và Nietzsche vào sự tồn tại của năng lượng tối tăm, nguyên khai, cái được biểu hiện ra ngoài để dẫn lối cho người nghệ sĩ tới sự diệt vong và tới thế giới ngầm. Dựa vào công thức này, mỗi người nghệ sĩ trước hết thuộc về Mẹ nguyên thủy tối tăm Urmutter (người mẹ đầu tiên), người mà năng lực có thể chảy vào mỗi tạo vật, bất kể hình thức bề ngoài của nó. Cũng như vậy, mỗi nghệ sĩ, nói một cách trừu tượng, là một hình thái lưỡng phân, khi mà tính cách của người đó kết hợp sự chắc chắn của người cha và năng lực người mẹ của thế giới ngầm nguyên thủy.
Sự lưỡng phân này đem lại cho những sáng tác của Hesse một chủ đề quí báu, đó là “vươn lên” giới hạn của bản thân và nhân cách, “vượt qua” sự phân chia tâm hồn bên trong thông qua sự kết hợp. Ở trong tác phẩmNarziss und Goldmund (Death and the Lover), chàng thanh niên Goldmund bị đưa tới một tu viện bởi người bố tàn nhẫn, để nhận những chỉ dẫn và để xóa bỏ trí nhớ về những xúc cảm, tính nghệ sĩ của một người mẹ “không đứng đắn”. Được sự chăm sóc của Narziss, một “người cha” và một trong những người thầy trẻ tuổi của nhà tu, Goldmund trở thành một kẻ chống đối với những bức tường và sự áp bức. Anh ta rời tu viện, trở thành một nghệ sĩ và một kẻ phong tình, và do đó phát huy được năng lực thuộc phần người mẹ của mình. Từ đó anh ta không hề ngạc nhiên khi biết được rằng ở mỗi cô gái anh ta gặp, ở trong mỗi bức tượng đất sét anh ta làm, và ngay cả trong hình hài của Trinh nữ mà anh ta đã phát hiện, là hình ảnh chôn vùi của một nguyên mẫu người mẹ, đang kêu gọi anh ta từ thế giới bên trong, hướng tới sự bùng nổ(exuberance) và sự hủy diệt.
Sự nổi dậy chống lại hình ảnh người cha (cũng có thể được hiểu là chống lại Đức cồ đàm và bài thuyết giáo điển hình của ngài) thể hiện một chủ đề chính của Siddhartha. Câu chuyện về Ấn độ của Hesse dựa trên sự phát triển tâm linh nghịch lý của một người Bà la môn trẻ tuổi theo đạo phật. Siddhartha, một phần nào đó, là một người chống đạo Phật, bởi vì nhân vật chính của Hesse đảo ngược câu chuyện cổ điển của Gautama Buddha, người đã sống vào thế kỉ VI trước Công nguyên. Dựa vào huyền thoại của Ấn Độ, người thầy sáng lập ra đạo Phật mang tên Siddhartha lúc sinh thời (họ Gautama), và đã trở thành Phật Thích ca mâu ni thông qua một quá trình tái sinh của tâm linh, sau nhiều năm thiền tu và chịu khổ hạnh. Phật tổ đã chạm tới sự toàn giác thông qua việc ăn chay và ngồi thiền, và thành công trong việc đạt được sự thẩu hiểu hoàn toàn tâm linh, cái đòi hỏi Phật tổ khả năng cảm nhận sự tập trung hoàn toàn của bản thân và tiềm năng của sự siêu việt hướng tới cõi Niết bàn.
Một truyền thuyết khác cho rằng trong khi thực hiện quá trình ăn chay và được các môn đồ sùng bái, Phật đã khám phá ra sự vô dụng của sự hành xác khổ sở, và quyết định “trở lại” với thế giới của con người nhằm thuyết giáo về sự cứu rỗi linh hồn. Mặc dù năm trong số những môn đồ của ông đã bỏ ông bởi vì thất vọng đối với việc thầy của họ dừng việc thiền tịnh, Phật đã tự đề ra cho mình nhiệm vụ trên con đường thách thức tầm hiểu biết của đạo Hindu cổ xưa. Ông bắt đầu phát triển cộng đồng của các nhà sư và những người theo đạo, những người tập trung xung quanh ông và người đệ tử mới ưu tú nhất của ông, Ananda[3]. Truyền thuyết cổ của Ấn độ phân biệt rõ giữa hai giai đoạn thành công trong sự nghiệp của Phật, từ lúc bắt đầu quá trình tu hành khổ hạnh, tập trung tinh thần và sống ở nơi thanh tịnh, sau đó là quá trình kiên quyết đi theo con đường vị tha nhân bản, thuyết giáo và tình yêu thương. Trong giai đoạn đầu, Phật đạt đến cảnh giới hoàn thiện bản thân, giúp Người có thể tự chủ và vượt qua chuỗi luân hồi vô hạn. Điều này đưa đến việc Người vượt ra khỏi giới hạn của thế giới và hoạt động ngoài vòng xoay của thời gian. Trong giai đoạn thứ hai, Người quyết định trở thành nhà giáo và là người giảng đạo, công việc đã trả lại sự nguyên bản của thời gian bên trong ông và khổ hạnh của người đời. Làm như thế, Đức Phật nhận ra được sự tồn tại của lịch sử và giúp con người tìm ra con đường thoát khỏi khổ đau và sự thăng trầm của đời sống.
Cốt truyện không chính thống của Hesse bắt đầu với cuộc nổi dậy của chàng thanh niên Siddhartha chống lại việc anh ta là một người Bà la môn (Brahmin). Anh ta cảm thấy rằng học thuyết về đức hy sinh, cái anh được học để trở thành một Brahmin thực thụ sau này, không thể giúp anh tự khám phá, bởi vì học thuyết đó bỏ qua những ý nghĩa của việc tu hành khổ hạnh- sự thanh tịnh bên trong và hiểu biết về bản thân mình. Để khám phá bản ngã mình, Siddhartha rời bỏ gia đình và gia nhập nhóm những người hành khất sa môn (samanas), những người sống trong rừng và thường xuyên thực hiện việc tu hành ẩn dật và tập trung tinh thần. Người bạn Govinda đi cùng Siddhartha. Cuối cùng, gặp được Đức Cồ Đàm đang giảng dạy tại một vùng lân cận, Siddhartha đạt tới cảnh giới độc lập về tinh thần, nhưng cũng trải nghiệm sự mặc khải nghịch lí vốn đã được chàng theo đuổi bởi sự khổ hạnh và hành xác, sự mặc khải đồng thời đã tạo nên sự tự xa lánh làm nên khoảng cách giữa anh ta và thực tại bản nguyên.
Để bù đắp cho sự lệch lạc của mình, Siddhartha quyết đinh rời bỏ các sa môn lại phía sau và hướng tới những ý nghĩa đẹp của cuộc sống hàng ngày. Làm như thế, anh ta đã tìm lại được những chi tiết thực nghiệm mà anh đã bỏ qua trước đó: những sắc màu chói lọi của tự nhiên, vẻ mặt con người và mùi vị của họ, những hình thù không đoán trước được của vật chất, và, tất nhiên, tình yêu. Bị quyến rũ bởi một cô gái đẹp, anh cảm thấy sự vô nghĩa của những năm tháng tu hành. Đến một ngôi làng nọ, anh ta gặp một cô kĩ nữ quyến rũ, Kamala, người đã dẫn anh vào nghệ thuật của tình ái. Để làm hài lòng nàng với những món quà quí hiếm, anh trở thành một nhà buôn thành đạt, dưới sự dẫn dắt của một lái buôn già dặn, Kamaswami. Nhưng anh ta thực hiện việc buôn bán với sự độc lập và niềm vui thú, như là một nghệ thuật hơn là con đường kiếm sống. Bất chấp thành công trong việc làm nhà buôn, cuối cùng anh cũng rời xa Kamala và Kamaswami, đi theo người bạn già Vasudeva sống trên dải đất của một con sông lớn và trở thành một người lái đò khiêm nhường.
Những nhân vật và tình huống trong cuốn tiểu thuyết được xây dựng dựa trên những hiện thực và tượng trưng của Đạo Phật. Cô kĩ nữ Kamala là hiện thân của cuộc sống trần tục như là một ảo ảnh của Samsara-dòng chảy bất tận của vòng luân hồi. Dựa trên những gì đạo Hindu dạy thời xưa, và căn cứ vào nghiệp chướng của một người trong kiếp trước, linh hồn của họ sẽ phải tái sinh nhiều lần, bị giam cầm trong vòng luân hồi vô tận.
Những giáo điều của Phật Giáo cũng dạy rằng thông qua sự sám hối, tu hành và thiền tịnh, một linh hồn hoàn hảo có thể vượt ra khỏi vòng luân hồi, đạt tới cõi Niết bàn. Bằng việc rời bỏ đoàn sa môn, Siddhartha tự nguyện tiếp tục cuộc sống của mình bên trong Vòng luân hồi: sự giam cầm của anh ta và Kamala trong thế giới của những ảo tưởng được thể hiện qua hình ảnh một con chim sống trong lồng, được cô kĩ nữ thả ra khi Siddhartha từ bỏ sự nghiệp nhà buôn và đến sống bên bờ sông.
Mặt khác, Govinda, bạn của Siddhartha vẫn ở lại con đường tiến tới cõi Niết bàn, từ chối đi theo bạn mình khi anh rời bỏ cuộc sống tu hành của sa môn. Siddhartha chỉ ra cho anh ta thấy rằng quyết định của mình là dựa trên một diễn giải không chính thống của học thuyết cổ điển của Đạo Phật, là một cuộc nổi dậy đơn độc chống lại ý nghĩa cơ bản của những gì mà thầy dạy. Anh đã giải thích cho Govinda rằng để đạt được sự hoàn mỹ, Phật phân chia Cõi Niết bàn và Samsara, mặc dù vũ trụ mà chúng ta thấy không có dấu hiệu nào của sự phân chia. Ngược lại, nó là một sự kết hợp sinh động, một thể thống nhất mà trong đó cõi Niết bàn và Vòng luân hồi không đối chọi với nhau mà cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Nếu một nhà triết học mong muốn trở thành một nhà hiền triết thực thụ, ông ta phải hiểu hết cả hai mặt của Vũ Trụ, không chỉ Cõi Niết Bàn, khi mà sự thấu hiểu bản thân cũng đòi hỏi sự kết hợp hài hòa của hai nửa của một linh hồn, chứ không phải sự ban cho đặc quyền nửa này chống lại nửa kia.
Dòng sông là biểu tượng chính của sự Toàn mãn trong tác phẩm. Siddhartha và Vasudeva sùng kính nó như là một người thầy vĩ đại, người kết nối hai nửa của Vũ trụ với nhau và liên kết Trái đất với sự bất diệt. Con sông lớn đánh dấu trung tâm địa lý trong trí tưởng tượng trong tiểu thuyết của Hesse. Siddhartha qua sông nhiều lần: lần đầu, khi anh ta vẫn là một người hành khất (saman), anh ta học được từ dòng sông rằng mọi vật đều mất đi, trong dòng chảy bất tận liên kết sự sống và cái chết trong vòng luân hồi của vũ trụ. Sau đó, khi anh ta quay lại dòng sông làm người lái đò, anh ta trải nghiệm những bí mật mà dòng sông nắm giữ, đồng thời, từ thời xa xưa, tất cả những nguồn nuôi dưỡng và những “hình ảnh” của thế giới.
Tiểu thuyết Demian được xuất bản năm 1919 dưới một bút danh tiếng Anh (Emil Sinclair). Nó được ra cùng khi với “Sự Trở Lại Của Zarathustra- Một Lời Cho Giới Trẻ Đức”, là một bản tuyên ngôn ngắn nhưng rực rỡ, qua đó Hesse chào đón cái kết thúc của WWI và thể hiện niềm tin cháy bỏng của ông vào sự xuất hiện của một kỉ nguyên mới, linh thiêng, vươn lên như một con phượng hoàng vụt lên từ chính đống tro tàn của nó. Cả hai tác phẩm đều đã thành công rộng rãi, mặc dù tác giả đã giấu tên thật của mình trong một thời gian. Điều đó là sự thật, ví dụ như Thomas Mann đã rất quan tâm tới Demian (ông ta cũng đã từng so sánh tác giả của nó với cả James Joyce), đã liên hệ với người chỉnh sửa Samuel Fischer nhằm tìm ra ai chính là tác giả. Việc này đã giúp ông tạo nên tình bạn khăng khít với Hesse, hoàn toàn ăn khớp với việc họ đã có quan hệ thư từ qua lại thường xuyên, việc Hesse ghé thăm gia đình của Thomas Mann ở Montagnola (Bắc Thụy Sĩ, nơi Hesse bén duyên cùng người vợ thứ hai, Ruth Wenger), và cuối cùng là cuộc vận động kiên quyết của ông hướng tới giải Nobel Văn Học cho người bạn mình năm 1946.
Demian, cái tên rõ ràng làm cho ta liên tưởng đến cái tên cổ “daimon, daemon” (quỷ dữ), có mặt trong tiểu thuyết trong vai của một thiên thần bóng tối, người giúp nhân vật chính phát huy năng lực nguyên khai, tăm tối trong tính cách của mình. Người anh hùng trong tiểu thuyết là điển hình cho một người lưỡng diện, từ khi anh ta bị dày xé, ngay từ thuở ấu thơ, bởi sự đối chọi giữa lực lượng đối nghịch bóng tối và ánh sáng, tạo nên sự giằng co trong nhân cách anh ta. Rời xa gia đình nơi đã mang lại cho anh ta một tuổi thơ thanh bình, và rời bỏ những người chị em gái hiền lành, Emil Sinclair cảm thấy cách ứng xử khó gần của mình được qui định bởi một sự nguyền rủa vô hình nào đó. Max Demian, một người bạn học lớn tuổi và kì dị, giúp anh ta bộc phát năng lực bị dày vò trong tâm hồn anh ta, thuyết phục anh ta rằng anh ta mang “dấu ấn” của một người ưu tú bị quỉ ám mà nguồn gốc có thể được truy về tới Cain, hình ảnh nổi bật đầu tiên về thế lực bóng tối trong Kinh thánh.
Max Demian dạy Sinclair rằng mỗi con người nên biết cách “vượt lên” và trở nên siêu nhân, bằng lòng với sự nguyên vẹn của tồn tại, đó là sự kết hợp của năng lực ánh sáng và bóng tối. “Vượt lên[5]”, Demian giải thích, nghĩa là sống vượt ra ngoài giới hạn, vượt ra khỏi cái xấu và cái đẹp, và trải nghiệm tự do như là một sự phun trào tổng thể của vũ trụ, trong đó Chúa và Quỷ dữ đến cùng với nhau. Đó là sự hăng hái với việc tạo nên một “tôn giáo mới”, bao bọc bởi những người mạnh mẽ, cô độc, những người tự tiến tới sự hoàn hảo của con người và vũ trụ, điều đó đã kết nối Demian và Sinclair lại. Mặc dù con đường của hai người đã chia cắt họ trong một thời gian, tuy nhiên họ vẫn có chung niềm tin rằng mỗi người nên tìm cho mình một linh hồn “sinh đôi”, người có thể giúp anh ta phát huy mặt còn bị che khuất trong tính cách.
Thế giới Abraxas, đánh dấu một tôn giáo mới, đưa chúng ta trở về với tinh thần “Ngộ đạo” (Gnostic) cổ xưa. Một chủ đề ngộ đạo khác trong Demian đó là sự mâu thuẫn của “hai bà Eva”. Một là Eva trong kinh thánh, và người kia là Bà Eva, mẹ của Max Demian, là sự nhân đôi tâm linh của nhân vật Eva trong kinh thánh, người nhắc ta nhớ lại Gnostic Sophia, sự hiện thân của Tri thức nhân loại và vũ trụ. Người thông thái trong cái trật tự trí tuệ mới -như tác giả đề xuất-nên tái hòa nhập dưới sự dẫn dắt tâm linh của Eva mới, trong bối cảnh sự hồi phục lớn hơn của loài người và nền văn minh mới tạo ra do Chiến tranh thế giới I. Ở khía cạnh này, những lời nhắn nhủ mang tính ý thức hệ nhân văn của tác phẩm tương đồng với chủ đề về sự trẻ hóa của tâm linh có chọn lọc, được Hesse đề cập trong Sự Trở Lại Của Zarathustra.
Kẻ lang thang cô độc, được thể hiện như là lực lượng bóng tối trong Knulp, cũng là đặc điểm trong chiều sâu cấu trúc của Sói Đồng Hoang. Nhân vật chính trong đó, Harry Haller, sống trong bi kịch và tự xa lánh người đời, nhưng anh ta bị lôi cuốn, giống với Detlef Spinell, gã nhà văn lố bịch từ Tristan của Thomas Mann, bởi môi trường tư sản có cơ chế một cách hoàn toàn và triệt để. Anh ta tán dương những thứ đó như là sự thu nhỏ của những hình thái kiên cố và có kết cấu vững chắc của xã hội. Harry Haller cũng là một nhân vật lưỡng diện: tâm hồn anh ta được tổng hợp trong một sự tương phản mang tính bi kịch đối với niềm đam mê trật tự và “tiếng gọi của loài sói”, cái đã đưa anh ta tới cuộc sống của một kẻ bị xã hội ruồng bỏ, xa rời sự hiểu biết và lòng thương xót của con người. Hesse có thiên hướng kết hợp hình ảnh kẻ nổi loạn này với xã hội chung của cái được gọi là “nghệ thuật của tầng lớp dưới”, bao gồm ảo thuật gia, diễn viên xiếc, phù thủy lang thang và người biểu diễn nhào lộn. Những gì mà Hesse cũng có chung với Thomas Mann đó là niềm khát khao để phơi bày ra rằng chính nghệ thuật nó có hai trình độ của tự-biểu hiện: một cái hùng vĩ đi theo cái thiên tài, và một cái châm biếm, lố bịch thì kết hợp với hình ảnh tên hề. Tình yêu của Harry dành cho một cô gái, Hermine, người cũng mang dấu vết lưỡng tính của Hermes, (một vị thần Hi Lạp trông cửa ra vào thế giới ngầm) đã đưa anh ta vào một “Hí viện ảo dị”, trong đó hai mảnh của tâm hồn anh ta sẽ hòa thành một.
Tinh hoa của lòng tin của Hermann Hesse vào sự tồn tại của một “cấp bậc thuần túy” của thi sĩ và nhà tư tưởng đã định hướng cho ông trong suốt cuộc đời, đóng một vai trò quyết định trong sự lựa chọn của ông để trở thành công dân Thụy Sĩ năm 1923. Nhận thức của ông về đất nước Thụy Sĩ gồm hai phần. Một bên, nó đã thể hiện sự độc lập chính trị, đất nước “hoàn hảo” của vùng Alps, nơi đã nuôi nấng J.J.Bachofen, Jacob Burchkardt[4] và Nietzsche, tất cả họ đều là những giáo sư xuất sắc của Đại Học Basel. Mặt khác, đây là mảnh đất rạng rỡ của những người ưa hòa bình, trung tâm văn hóa, thuần khiết, không mang tư tưởng chính trị Đức, cái mà Hesse cố gắng thể hiện trong những bài báo và bản tuyên ngôn chống lại Hitler và Đức Quốc Xã. Niềm tin mãi mãi của ông rằng người nghệ sĩ nên quây quần bên nhau trong một hội cấp cao, được dẫn dắt bới những giá trị phi phàm và sự rộng lượng chung, đã được đưa vào tiểu thuyết Die Morgenlandfahrt(Hành trình về phương Đông, 1932) và Das Glasperlenspiel (1943), một xã hội tâm linh không tưởng, huy hoàng được dựng vào năm 2200.
Niềm tin rằng con người nên thực hiện sứ mệnh nằm trong mỗi con người, đã định hướng cho cuộc đời của ông. Đặc điểm này được thừa hưởng từ gia đình những người truyền giáo cả hai bên nội ngoại của nhà văn. Sinh ra năm 1847 tại Estonia, người cha ngoan đạo của ông, Johannes Hesse, đã phụng sự việc truyền đạo thiên chúa tại Ấn độ. Tại đó ông gặp mẹ của Hesse, Marie Gundert (sinh 1842), người cũng thuộc gia đình truyền giáo. Trở lại Đức năm 1873, họ kết hôn với nhau và sống ở một ngôi làng thuộc Calw, gần khu Rừng Đen, trong vùng đất Württemberg, và điều hành một nhà phát hành sách truyền giáo, dưới sự chỉ dẫn của ông ngoại của Hesse, Hermann Gundert. Như là một hệ quả, Hesse luôn luôn chia sẻ ý kiến rằng mỗi chúng ta nên trở thành một người theo chủ nghĩa nhân đạo ưa hòa bình, và cái văn hóa đó, được dựng lên bởi những nhà tư tưởng và nghệ sĩ lỗi lạc với những nhu cầu nhân đạo thuần túy, có thể chữa lành tất cả những vết thương của một nền văn minh nặng về vật chất và bị dày xéo.
Hành trình về phương Đông gợi lên hào khí của cuộc thập tự chinh thời trung cổ, mặc dù tác phẩm bám vào hiện thực của thế kỉ 20. Nhân vật chính trong tác phẩm, được gọi là H.H (hầu hết các anh hùng trong những tác phẩm của Hesse đều ẩn chứa tính tự truyện), tham gia một phong trào tự do tư tưởng, đoàn kết những cá nhân văn hóa ưu tú một thời. Những thành viên của họ, tập trung lại thành nhóm, chu du khắp châu Âu, rồi hướng tới phương Đông xa xôi. Mục đích cơ bản của cuộc tuần hành của họ là sự thôi thúc về văn hóa cho mỗi người. Cộng đồng lang thang đó được điều hành bởi một hệ thống cấp bậc chặt chẽ, nó khảo sát sự hiến dâng và sự tự thực hiện của mỗi thành viên một cách nhân từ. Không có chỗ cho những chính trị gia trên chuyến đi: những người tham gia hành động và suy nghĩ vượt ra khỏi thời gian và lịch sử, được chỉ dẫn bằng những qui luật riêng của cộng đồng của họ.
Một nơi dường như vượt thời gian là Castalia, một cộng hòa kiểu đảo quốc của những người chơi Trò hạt ngọc thủy tinh, cuốn tiểu thuyết với tiêu đề đồng âm (Glasperlenspiel), được xuất bản năm 1943, vào thời điểm cao trào của WWII, như là bản tuyên ngôn độc lập của cá nhân và là một sự phản kháng. Người thanh niên Josef Knecht, một bậc thầy của trò chơi trong tương lai, là một học trò với những khả năng xuất sắc. Những điều đó khiến anh ta được chọn vào một ngôi trường đặc biệt ở Castalia, một cấp bậc của tư tưởng được điều khiển bởi một hệ thống nghiêm khắc nhưng nhân đạo của những quan chức và bậc thầy trong mười hai nhánh của khoa học nhân văn. Nhóm đặc biệt xuất sắc của hệ thống cấp bậc bao gồm những người chơi chơi trò hạt ngọc thủy tinh xuất sắc, tinh tế bằng việc tổng hợp tất cả các nghệ thuật và biểu tượng của chúng vào một tổng thể dựa trên những luật lệ liên kết giữa toán học và âm nhạc. Trò chơi đòi hỏi một sự bắt đầu đặc biệt, theo kiểu Pythagor để tập cho người chơi làm quen với nghệ thuật của tư tưởng tương hợp. Thành công gồm cả- như nó đã xảy ra trước đó đối với những người Gnostics và những nhà giả kim- sự hoàn thành của việc trung hòa dao động tâm lí của những người chơi.
Tiểu thuyết là một thế giới không tưởng: những gì diễn ra trong đó được dựng trong bối cảnh năm 2200, nó cũng được đánh dấu, trong niềm tin của Hesse, là sự kết thúc của thời kì “hiếu chiến” và “sơ khai” của anh hùng thời đại. Kỉ nguyên mới, nơi mà tinh hoa tư tưởng cư ngụ tại vùng đất trung tâm Castalia, bị thiếu thiên tài và sự sáng tạo, nhưng có khả năng phục chế những biểu tượng và công thức thành một mạng lưới tinh vi của sự tương đồng văn hóa. Tất cả những cư dân của Castalia đều là bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực của họ, được chắt lọc kĩ lưỡng và kiểm soát trong hàng thập niên của quá trình hình thành nên họ. Họ sống vượt ra cả thời gian và lịch sử, trong trạng thái trung hòa, tâm hồn thanh thản. Castalia dù sao cũng thể hiện một gánh nặng về tài chính của nhà nước phúc lợi (altruistic state. Khi lịch sử của lãnh hạt bên ngoài tăng tốc nhịp điệu của nó, đi vào một kỉ nguyên mới của rối loạn chính trị và giao tranh, sự tồn tại của sự thế giới tư tưởng tập trung này sẽ bị biến mất.
Tác phẩm nói về câu chuyện của Josef Knecht, người hoàn thành sự thăng tiến trong hệ thống cấp bậc bằng việc trở thành một bậc thầy đáng kính, bậc thầy của trò chơi hạt ngọc Thủy Tinh. Trên đường thăng tiến của mình, ông được gửi gắm bởi những quan chức của Castalia để hoàn thành nhiều nhiệm vụ bên ngoài. Một chuyến đi đưa ông đến một tu viện dòng Benedictine, nơi ông gặp Pater Jakobus, một trong những thủ lĩnh tư tưởng của Nhà thờ dòng Catholic. Hesse mô tả thầy tu già như một bản sao của Jacob Burckhardt[6], giáo sư và là một học viên cũ của Nietzsche tại đại học Basel. Đây là một động thái đùa cợt đối với cảnh ngộ của chính Hesse, như là một người di cư tự nguyện vào vùng chính trị trung lập của Thụy Sĩ, bao quanh bởi sự dữ dội của WWII. Dưới sự chỉ dẫn của Pater Jakobus, Josef Knecht bắt đầu với nghệ thuật của lịch sử và nhận ra rằng ngay cả Castalia cũng có thiên hướng bị tàn lụi, những mâu thuần được nó chấp nhận cũng đầy miễn cưỡng (ngoại trừ những giá trị tâm linh) và số phận của nó mong manh một cách hiển nhiên. Với nhiều năm phụng sự trên cương vị là một bậc thầy xuất sắc, Knecht đã trải qua một chấn động gây ra bởi lòng tin của ông ta rằng với việc giữ nguyên một Castalia biệt lập, dù sao ông cũng đóng góp cho sự bí ẩn cho phép vùng đất tồn tại, trong khi không có khả năng điều khiển vận mệnh của chính nó. Để giải quyết tình huống tiến thoái lưỡng nan, Josef Knecht quyết định rời bỏ trách nhiệm và tiếp tục cuộc sống của một giáo viên tư tại một ngôi nhà trần tục của một người bạn và là một và là một người từng đối lập với ông, chính trị gia Plinio Designori. Không hòa nhập được với hoàn cảnh mới, ông ta chết gần như tức khắc, trong khi bơi trong một hồ nước lạnh trên dãy Alps, được soi rọi bởi mặt trời buổi bình minh.
Đại học Babes-Bolyai, Cluj- Napoca, Romania
Chú thích:
[1] Số tháng 1 năm 2006, tr 13-22.
[2] Micheal D. Sollars,(2008), Infobase Publishing, New York.
[3] Bản dịch tiếng Anh là “mid-day man,”người đàn ông không có bóng, chúng tôi tạm dịch là Ngọ nhân.
[4] Thánh tăng A Nan Đà, một trong những người anh em họ của Phật Thích ca.
[5] Ẩn ngữ của Nietzsche: “người hùng phải tàn bạo” được viết ra trong một bối cảnh: thúc dục con người phải vượt qua những giáo điều tư tưởng đã đè nặng lên vai châu Âu và Nietzsche suốt 19 thế kỷ. Để trở thành siêu nhân, con người phải vượt qua chính mình, vượt qua sự hèn hạ và mọi rợ vốn trì trệ tiềm ẩn trong những cám dỗ của bản năng: "chỉ nơi nào có những mộ phần, nơi đó mới có những sự phục sinh!"
[6] Nhà sử học có ảnh hưởng lớn tới Hesse.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét