CHIÊM TINH HỌC KHOA HỌC CỦA VŨ TRỤ ĐỒNG NHẤT

Chiêm tinh học có lẽ là một chủ đề cổ xưa nhất và cũng bị cấm đoán triệt để. Nó cổ xưa bởi khi chúng ta khảo sát quá trình lịch sử nhân loại, chiêm tinh học đã hiện diện rồi. Câu khắc chiêm tinh học được tìm thấy trên xương còn lại của nền văn minh Sumerian vốn hiện hữu trên hai mươi lăn nghìn năm trước Đức Chúa Giê Su. Dấu vết còn lại của xương khám phá với dấu khắc chiêm tinh học và với nét phác họa đề cương của quỹ đạo mặt trăng trên bầu trời. Nhưng ở Ấn Độ thì khoa học này thậm chí còn cổ đại hơn. Ở Rigveda, chú thích được để lại với chòm sao của hành tinh có thể xảy ra hơn chín mươi lăm ngàn năm về trước.
Bởi điều này, Lokmanya Tilak kết luận rằng Vệ Đà chắc chắn còn cổ xưa hơn: Chòm sao mà Vệ Đà diễn tả có thể xảy ra hơn chín mươi lăm nghìn năm về trước. Cho nên, sự tham khảo của kinh Vệ Đà đặc trưng đó có thể không thêm vào trong giai đoạn sau này. Thế hệ sau, sẽ không đủ khả năng để vẻ ra chòm sao hiện hữu nhiều năm trước đó. Nhưng hiện tại, chúng ta có nhiều phương pháp khoa học mà chúng ta có thể sử dụng để khám phá các vì sao trong thời khắc đặc biệt nào đó ở một quá khứ xa xưa. Quy luật chiêm tinh học sâu sắc nhất, trước tiên tìm thấy ở Ấn độ. Trong thực tế, chỉ bởi chiêm tinh học mà toán học ra đời. Để tính toán thiên văn, toán học phải cần có. Con số sử dụng trong toán học phát minh tại Ấn Độ… Con số từ một đến mười có mặt trong tất cả ngôn ngữ của thế giới căn bản nguyên thủy từ Ấn Độ. Khắp cả thế giới, hệ thống số học được chấp nhận. Hệ thống số học ra đời tại Ấn, và nó từ từ lan tràn khắp nơi trên thế giới. Khi bạn nói, “Nine” (số chín) trong Anh Ngữ, đó là từ sửa đổi từ Phạn ngữ “Nav”. Khi bạn nói, “Eight” (số 8) trong Anh Ngữ, nó là từ được sửa đổi của Phạn ngữ “Acht”. Số học từ một đến đến chín thịnh hành trong mọi ngôn ngữ khắp nơi trên thế giới, tồn tại bởi tầm ảnh hưởng của chiêm tinh học Ấn Độ. Kiến thức đầu tiên về sự tồn tại của Chiêm tinh học trải dài trong nền văn minh Sumerian từ Ấn Độ. Sáu mươi nghìn năm trước kỷ nguyên Đức Chúa Giê Su, dân tộc Sumerian[1] là dân tộc đầu tiên đã mở cánh cửa của Chiêm tinh học vào thế giới Tây phương. Người Sumerian đã đặt nền tảng cho sự nghiên cứu khoa học về các chòm sao. Họ xây một ngôi tháp cao khoảng 17 mét (bẩy trăm feet), và từ ngôi tháp đó, các đạo sư Sumerian đã quan sát bầu trời hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các nhà siêu hình học Sumerian sớm biết được rằng, bất cứ chuyện gì xảy ra cho nhân loại không hiểu sao lại liên quan đến các chòm sao. Chúng là nguồn gốc.
Sáu mươi nghìn năm trước kỷ nguyên Đức Chúa Giê Su, trong cái nhìn của người Sumerian rằng mỗi khi có bệnh dịch lan tràn, không hiểu sao lại có mối liên hệ với các ngôi sao đó. Vào thời đại này, có cơ sở khoa học cho cái nhìn đó. Người hiểu khoa Chiêm tinh học ngày nay cho rằng chính là người Sumerians mở đầu lịch sử nhân loại. Vào năm 1920, một khoa học gia người Nga, Chijvesky, khảo sát vấn đề này rất kỹ lưỡng và khám phá rằng cách mỗi mười một năm, có nhiều vụ bùng nổ lớn trên mặt trời. Cách mỗi mười một năm, có sự bùng nổ của hạt nhân trên vầng thái dương. Chijevsky khám phá ra rằng mỗi khi có nhiều bùng nổ hạt nhân trên mặt trời, chiến tranh và nhiều cuộc cách mạng khai mào trên trái đất. Theo ông, trong vòng bẩy trăm năm qua, mỗi khi có hiện tượng như vậy xảy ra trên mặt trời, thì có nhiều tai họa xảy ra trên trái đất. Sự phân tích của Chijevsky không thể chối bỏ được, và bởi nó đối nghịch với quan điểm của người Mát Xít, vào năm 1920, Stalin đã ra lệnh bắt ông và ném ông vào tù. Chỉ sau cái chết của Stalin, Chijevsky mới được thả ra. Đối với Stalin, kết luận của Chijevsky có vẻ rất lạ lùng. Theo tư tưởng Mác xít và người cộng sản, bất kỳ cuộc cách mạng nào diễn tiến trên trái đất, nguyên nhân căn bản là sự chênh lệch kinh tế giữa con người, nhưng Chijevsky tuyên bố rằng nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là do sự bùng nổ xảy ra trên mặt trời. Làm sao sự bùng nổ trên mặt trời có thể liên quan đến vấn nạn nghèo đói và thịnh vượng trong đời sống của con người? Nếu lý thuyết của Chijevsky là đúng, thì toàn bộ hệ thống của Max bị tan rã thành đất bụi. Như vậy, bạn không thể giải thích các cuộc cách mạng trong sự tham khảo đối với kinh tế và sự vật lộn giai cấp. Vì thế, chỉ có Chiêm tinh học mới có thể giải thích cuộc cách mạng. Chijevsky không thể chứng minh sai lầm. Kết quả tính toán về bẩy trăm năm đó quá khoa học, sự liên quan mà ông thiết lập giữa sự bùng nổ của mặt trời và hiện tượng trên mặt đất chặt chẽ. Chứng minh ông sai rất khó thể, nhưng gởi ông đến Siberia thì là một vấn đề đơn giản.
Sau khi Stalin chết rồi, Khrushchve thả Chijevsky khỏi Siberia. Năm mươi năm vô giá trong cuộc đời của người đàn ông này bị mất ở Siberia. Sau khi được thả ra, ông không thể sống lâu hơn bốn đến sáu tháng, nhưng trong những tháng ngày ngắn ngủi đó, ông gom góp thêm nhiều chứng cớ cho luận điểm của ông. Ông cũng liên kết sự lan tràn của bệnh dịch trên trái đất với sự ảnh hưởng của thái dương hệ. Mặt trời không phải là trái banh lửa bất động, nhưng chúng ta thường nghĩ, nhưng thay vì vậy, nó chuyển động và tồn tại mãi, một hữu cơ bốc lửa. Mỗi giây phút, mặt trời thay đổi tánh khí của nó. Khi mặt trời thay đổi tánh khí thậm chí dù chỉ một chút, sự sống trên mặt đất rung chuyển. Không có gì xảy ra trên mặt đất mà không xảy ra trên mặt trời. Mỗi khi có nguyệt thực, chim chóc trên rừng không hót trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ trước đó. Suốt thời điểm nguyệt thực, toàn bộ trái đất trở nên thinh lặng. Loài chim ngừng hót líu lo và tất cả mọi là động vật đều sợ hãi, bị đè nặng và e sợ. Khỉ bỏ cây và xuống dưới thấp. Chúng họp lại thành nhóm, rõ ràng là muốn bảo vệ lẫn nhau. Đây là một hiện tượng đáng kinh ngạc khi thấy loài khỉ, luôn ồn ào và la hét, lại có thể im lặng trong thời điểm của nguyệt thực, ngay cả các đạo sư và tu sĩ nhập thiền cũng không thể so sánh với chúng. Chijevsky giải thích toàn bộ vấn đề, nhưng tư tưởng như vậy đã bắt đầu từ Sumeria. Sau này, có một bác sĩ Thụy sĩ tên là Paracelus khám phá thêm nhiều dữ kiện. Ông làm một cuộc khám phá không thể so sánh… và sự khám phá này đã thay đổi toàn bộ khoa học y khoa, nếu không thời đại này thì tương lai. Cho đến bây giờ, sự khám phá này vẫn chưa được xem là có hiệu lực bởi Chiêm tinh học là một chủ đề bị lờ đi… cổ xưa nhất, bị bác bỏ nhất, và cũng tôn trọng nhất.
Năm vừa qua, ở Pháp, có thống kê tính toán là đến bốn mươi lăm phần trăm dân chúng tin rằng khoa Chiêm tinh học là một môn khoa học. Tại Hoa Kỳ, năm ngàn chiêm tinh gia nổi tiếng vẫn đang làm việc ngày và đêm. Họ có quá nhiều thân chủ đến mức họ không thể nào thành tựu được công việc của họ một cách thích đáng. Người Hoa Kỳ đã trả hàng triệu đô la mỗi năm cho các nhà chiêm tinh. Bảy mươi phần trăm tin ở Chiêm tinh học, bao gồm một số lớn các khoa học gia, các nhà tư tưởng và những người thông minh khác. C. J. Jung cho rằng các cánh cửa của nhiều viện đại học khép kín đối với khoa Chiêm tinh học hằng ba trăm năm qua, nhưng trong ba mươi năm sắp tới, khoa chiêm tinh sẽ mở ra nhiều cánh cửa và lần nữa lại vào các viện đại học. Nó sẽ đủ khả năng phát triển như vậy bởi mọi xác định về khoa chiêm tinh học, cho đến bây giờ vẫn chưa được chứng minh có thể chứng minh. Paracelsus đã cho ra đời một sự khám phá… rằng con người bị bệnh tật chỉ khi nào mối quan hệ hài hoà giữa họ và chòm sao vào ngày sinh của họ bị suy sụp. Đối với vấn đề, giải thích cần phải có. Nhiều năm trước Paracelsus, có một người Hy Lạp tên Pythagoras cho ra đời một nguyên lý rất giá trị về sự hài hoà của các hành tinh. Khi Pythagoras tuyên bố nguyên lý này tại Hy Lạp, ông vừa chỉ mới về sau chuyến hành trình đến Hy Lạp và Ấn Độ. Khi ông đến Ấn Độ, ông đã hấp thụ không mỏi mệt về tư tưởng của Đức Phật và Mahavira. Sau khi ông trở về Hy Lạp, ông đưa vào trong báo cáo của ông về sự tham khảo riêng biệt về Phật tử và đạo sư Kỳ nan. Ông đặt cho các bậc giác ngộ của Kỳ nan một định lý là Jainosophists, và cũng tường trình rằng họ khỏa thân khi tản bộ. Pythagoras tin rằng mỗi vì sao, mỗi hành tinh và một chòm sao đem lại một từ trường, và mỗi vì sao có sự chuyển động riêng biệt của nó. Tất cả mọi sự chấn động của chòm sao đồng tạo ra giai điệu hài hoà du dương êm tai mà ông gọi là sự hài hoà của vũ trụ.
Khi bạn mới sinh ra, giai điệu này được cấu tạo bởi sự cộng hưởng của các vì sao vào thời gian đó, đã khắc ghi trên tâm trí bạn trong trạng thái tươi mát nhất, nhậy cảm nhất, và ít phức tạp nhất. Suốt cuộc đời bạn, hiện tượng này sẽ gây ra nguyên nhân sức khoẻ lành mạnh hoặc bệnh tật. Khi bạn sống hoà nhập với giai điệu nguyên thủy vốn đã tồn tại vào lúc bạn mới sinh ra, thì bạn khoẻ mạnh. Mỗi khi sự hoà nhập của bạn với nền tảng hài hoà du dương này bị suy sụp, bạn bị bệnh hoạn. Trong mối tương quan này, Paracelsus đã thành tựu một công việc quan trọng. Ông sẽ không cho thuốc đến bất kỳ bệnh nhân nào cho đến khi ông thấy được Kundali, lá số tử vi của họ. Đây là một hiện tượng đáng ngạc nhiên là sau khi ông nghiên cứu lá số tử vi của họ, Paracelsus sẽ chữa trị bệnh nhân đã làm cho các bác sĩ khác phải bối rối… các bệnh nhân vốn không chữa trị được bởi các bác sĩ khác. Ông thường bảo, “Ngoại trừ tôi biết được vị trí của các vì sao vào thời gian mà bệnh nhân mới ra đời, thì thật không thể nào biết được những ký hiệu sự hòa hợp bên trong của ngay đó. Ngoại trừ tôi thấu đáo cách sắp đặt hài hoà bên trong của họ thì làm sao bệnh nhân có thể được điều trị?” Nhưng lành mạnh có nghĩa là gì? Vấn đề này, chúng ta nhất định phải cố gắng hiểu. Thông thường, nếu chúng ta cố vấn một bác sĩ về định nghĩa của lành mạnh là gì, họ sẽ chỉ nói rằng sự lành mạnh là sự vắng bóng bệnh tật. Nhưng định nghĩa này phủ định. Đây là một sự thiếu may mắn khi chúng ta định nghĩa lành mạnh theo định nghĩa của bệnh tật. Lành mạnh là một sự khẳng định, một trạng thái khẳng định. Bệnh tật là phủ định. Sức khoẻ là tánh tự nhiên của chúng ta. Bệnh tật là sự tấn công trên sự tự nhiên. Vì thế, rất lạ lùng là chúng ta phải định nghĩa lành mạnh theo định nghĩa bệnh tật. Để định nghĩa chủ thể trên ý nghĩa của khách thể thì rất lạ lùng.
Sức khoẻ đồng tồn tại với chúng ta; bệnh tật thường đến thỉnh thoảng. Sức khoẻ bắt đầu với chúng ta từ thuở sơ sinh. Bệnh tật là hiện tượng bề ngoài, nhưng nếu chúng ta vấn một bác sĩ ý nghĩa của sức khoẻ là gì, họ chỉ có thể bảo rằng sức khoẻ có mặt trong khi bệnh tật thì vắng mặt. Paracelsus thường cho rằng sự dịch giải này là sai. Khái niệm về sức khoẻ cần phải định nghĩa một cách khẳng định, nhưng làm sao chúng ta có thể định nghĩa một cách khẳng định, một sự lý giải của khái niệm sức khoẻ sẽ đầy tính chất sáng tạo? Paracelsus thường nói, “Ngoại trừ chúng ta biết trạng thái của sự hòa hợp bên trong của chúng ta, chúng ta có thể giúp bạn trừ được bệnh tật… bởi sự hài hoà ban tặng là yếu tố sức khoẻ, nhưng nếu chúng ta điều trị được bệnh tật, bạn sẽ bị căn bệnh khác ngay. Vì bên trong nội tại của bạn thiếu sự quân bình và không được chỉnh đốn, nó cần phải được bồi bổ.” Năm trăm năm đã trôi qua từ thời Paracelsus, và những khám phá đã biến mất vào sự lãng quên, nhưng hiện tại, hai mươi năm qua, khoa chiêm tinh lại bành trướng. Vào thời đại này, một nền khoa học mới lại phát sanh. Tôi sẽ mô tả khoa học mới lạ này một chút, và sau đó bạn sẽ đủ khả năng để thấu hiểu môn khoa học cổ đại của khoa chiêm tinh học này dễ dàng hơn.
Vào năm 1950, có một môn khoa học mới ra đời được gọi là Hóa học Vũ trụ. Người khởi đầu của bộ môn khoa học này là George Giardi, một trong một những nhân vật trọng đại nhất của thế kỷ này. Nhân vật này, sau những cuộc thí nghiệm không ngừng trong phòng thí nghiệm, chứng minh một cách khoa học rằng toàn bộ vũ trụ là một hệ thống hữu cơ… rằng toàn bộ vũ trụ là một thân. Nếu ngón tay tôi bị đau, thì toàn bộ châu thân của tôi bị ảnh hưởng. “Thân” có nghĩa là không riêng rẽ với tay chân, tất cả đều tổng hợp. Nếu mắt tôi bị đau, thì ngón chân cái của tôi cũng kinh nghiệm cái đau này. Nếu chân tôi bị tổn thương, thì cái đau này cũng thấm vào tận trái tim. Nếu tâm trí tôi bị bệnh, toàn châu thân của tôi sẽ bị hỗn loạn. Nếu khắp cả châu thân của tôi bị hư hoại, thì sẽ rất khó cho tâm trí tôi có thể tồn tại nơi nào khác. Thân là một đơn vị hữu cơ: Chạm vào một bộ phận thì toàn châu thân sẽ chấn động, tất cả mọi bộ phận đều bị ảnh hưởng. Hóa học Vũ trụ cho rằng toàn bộ vũ trụ là thân. Không có gì là riêng rẽ. Tất cả vạn vật đều đồng nhất. Vì vậy, dù một vì sao có cách bao xa từ nơi chúng ta, khi nó thay đổi, nhịp đập trái tim của chúng ta cũng thay đổi. Dù mặt trời có cách bao xa, khi nó bị hỗn loạn thì dòng huyết mạch của chúng ta cũng bị hỗn loạn. Cách mỗi mười một năm, một trận bảo nguyên tử lại xảy ra trên mặt trời. Lần mới nhất vừa qua, trận bảo nguyên tử lớn và những sự bùng nổ lớn đã xảy ra, và một bác sĩ người Nhật tên là Tamatto đã làm một cuộc khám phá ly kỳ. Bác sĩ này đã nghiên cứu trên huyết mạch của phụ nữ hơn hai mươi năm. Có một sự đặc biệt đúng đắn về kinh nguyệt của người phụ nữ đã thiếu vắng trong dòng máu của người nam. Cùng lúc với kinh nguyệt của người phụ nữ ít dần đi thì thời gian thai nghén cũng yếu dần đi. Đây là sự khác biệt căn bản giữa huyết mạch của người đàn ông và người phụ nữ, theo Tamatto, nhưng khi trận bảo năng lượng nguyên tử diễn tiến trên mặt trời với cường độ lớn thì huyết mạch của người nam yếu dần đi. Đây là một hiện tượng lạ thường. Trước đó, chưa bao giờ được biết là huyết mạch của người đàn ông lại bị ảnh hưởng qua sự hỗn loạn của mặt trời. Nếu dòng máu có thể bị ảnh hưởng thì mọi sự khác có thể bị ảnh hưởng.
Có một tư tưởng gia Hoa Kỳ, Frank Brown, nỗ lực sắp đặt các phương tiện cho người du hành vào không gian. Nửa cuộc đời của ông, ông đã thực hiện công việc của ông để bảo đảm rằng người du hành vào không gian sẽ không đối diện với bất kỳ khó khăn gì. Vấn đề nghiêm trọng nhất là họ sẽ bị ảnh hưởng ra sao khi họ rời trái đất. Không ai biết có bao nhiêu chất phóng xạ nguyên tử mà họ có lẽ phải trực diện hoặc bị ảnh hưởng. Hai ngàn năm sau Aristotle, tại Tây phương được biết rằng không gian vốn trống rỗng, rằng không có gì ở đó: Hai trăm dặm cách trái đất khí quyển chấm dứt và chỉ là không gian, nhưng qua sự kiểm tra của người du hành vào không gian, chứng minh rằng khái niệm này sai. Không gian không trống rỗng mà rất tròn đầy. Không trống rỗng chết chóc mà sống động khôn cùng. Sự thật là hai trăm dặm lớp khí quyển rộng lớn của trái đất ngăn chặn mọi sự ảnh hưởng đến chúng ta, nhưng không gian có nhiều dòng điện lạ lùng luân lưu, ảnh hưởng của nó có lẽ làm con người không thể nào chịu đựng nổi. Bạn sẽ ngạc nhiên khi hiểu hiện tượng này, và bạn sẽ cười, nhưng trước khi ông gởi người vào không gian, Frank Brown gởi một củ khoai tây vào không gian. Ý định của Brown rằng sự khác nhau giữa con người và củ khoai tây không cách xa lắm. Nếu củ khoai tây bị hư thì con người không thể sống được. Nếu củ khoai tây không bị hư hoại thì con người có thể sinh tồn. Củ khoai tây là một hữu cơ rắn chắc, và con người thì cực kỳ nhậy cảm. Nếu thậm chí một củ khoai tây không thể tồn tại được thì con người không có hy vọng sinh tồn. Nếu củ khoai tây không bị hư hoại khi trở về và nếu củ khoai tây nẩy mầm thì con người có thể gởi vào không gian. Tuy vậy, vẫn có sự quan tâm về khả năng sinh tồn của con người.
Từ cuộc thí nghiệm này, Brown chứng minh thêm một điều nữa… rằng hạt giống khoai tây nằm trên mặt đắt, hay là bất kỳ hạt giống nào nằm lăn lóc, mọc lên trong mối tương quan với mặt trời. Chỉ mặt trời đơn độc cũng làm nó nẩy mầm và khuyến khích nó mọc lên. Chỉ có mặt trời giúp cây nẩy mầm và giúp nó phát triển. Brown cũng nghiên cứu trên một địa hạt khác. Chủ đề khác thậm chí bây giờ còn được tặng cho một cái danh từ thích hợp là Tính di truyền Hành tinh. Có một thuật ngữ khác trong Anh ngữ, Tử vi (Horoscope) bắt nguồn từ từ ngữ Hy Lạp Horoscopo. Ý nghĩa của chữ Horoscopo là: Tôi quan sát các hành tinh rõ nét lên. Khi một hài nhi mới ra đời, ngay khoảnh khắc đó, nhiều ngôi sao bắt đầu nổi lên khắp chân trời của trái đất. Khi mặt trời mọc mỗi sáng bình minh và lặn vào mỗi buổi chiều, nên các ngôi sao mọc và lặn trong không gian và lặn trong không gian hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày. Vì khoảng thời gian đó có vài ngôi sao ra đời, và các ngôi sao khác thì lặn mất. Có vài ngôi sao thì nổi lên, còn có vài ngôi sao thì lặn mất. Hài nhi được sinh ra trong vị trí sắp đặt của các vì sao trong không gian. Cho đến bây giờ, chúng ta vẫn hoài nghi rằng… và ngay cả hiện tại, có nhiều người vẫn chưa quen thuộc với chủ đề này và vẫn hoài nghi… rằng mặt trăng và các ngôi sao có mối tương quan với con người. Dù các ngôi sao có hiện lên ở bất kỳ nơi nào, thì có gì khác biệt với một vài đứa trẻ mới ra đời trong một đô thị? Và cũng như thế, cùng ngày đó, dưới một chòm sao, không chỉ có một đứa bé ra đời nhưng hàng nghìn đứa trẻ được sinh ra. Giữa chúng thì có lẽ một trở thành một nguyên thủ của một quốc gia, nhưng số còn lại thì không thể. Giữa chúng, có lẽ một sẽ chết sau một trăm năm, và một đứa trẻ chỉ hai ngày sau. Giữa chúng sẽ có một thiên tài xuất chúng và một sẽ là người đần độn. Từ quan điểm nông cạn đó, họ biện luận rằng làm thế nào một đứa trẻ có thể liên quan đến lá số tử vi chỉ qua sự ra đời dưới một chòm sao và cấu trúc hành tinh. Lý lẽ của câu hỏi như vậy có vẻ rõ ràng và trực tiếp. Tại sao các ngôi sao lại liên quan với ngày sinh của một hài nhi? Và cũng như vậy, không chỉ một hài nhi ra đời; dưới cùng một chòm sao đó, có nhiều đứa trẻ được sinh ra mà không hề giống nhau. Qua lý luận như vậy thì có vẻ ngày sinh của một con người không liên hệ gì với các vì sao đó.
Nhưng từ nhiều khảo sát của Brown, Picardi, và nhiều nhân vật khác, chúng ta có thể đưa đến kết luận. Tất cả các khoa học gia cho rằng mặc dù chúng ta không thể xác định rằng một đứa trẻ như một cá nhân bị ảnh hưởng bởi các chòm sao. Tuy vậy, chúng ta có thể cho rằng với một cuộc đời nhất định thì toàn bộ bị ảnh hưởng. Mặc dù một đứa bé như một cá nhân có bị ảnh hưởng hay không chúng ta không thể nói hoặc biết, nhưng sự sống như toàn bộ thì có thể. Nếu cuộc đời như một tổng hợp, thì chúng ta xem xét sự kiện của vấn đề sâu sắc hơn thì chúng ta sẽ khám phá một con người, cũng bị ảnh hưởng bởi các chòm sao. Một điều nữa cần phải cân nhắc. Khoa chiêm tinh học được xem là một khoa học hình thành từ thời cổ đại, không thể phát triển. Nhưng theo quan điểm của tôi, môi trường chỉ ngược lại. Khoa chiêm tinh học là một môn khoa học có sự phát triển vô hạn trong các nền văn minh tiến bộ vượt bực, nhưng nền văn minh đó đã bị mất và chỉ có những mảnh nhỏ của khoa chiêm tinh học của nó còn lại trong tay chúng ta. Khoa chiêm tinh học không phải là một môn khoa học mới lạ cần phải phát triển, nhưng một môn khoa học đã có một thời kỳ tiến triển. Cuối cùng, nền văn minh mà nó phát triển bị mất. Các nền văn minh đến và đi mỗi ngày: Những nền tảng, lời dạy và nguyên lý cơ bản của các vấn đề này được khai triển bởi chúng, đã bị mất. Vào thời đại này, môn khoa học này đã hướng về thời điểm mà nơi nó sẽ được chấp nhận luận đề rằng sự sống là một tổng thể bị ảnh hưởng bởi sự vận hành của các vì sao.
Vào lúc mới sinh ra, điều kiện tâm trí của một đứa trẻ giống một dĩa chụp hình cực kỳ nhậy cảm. Hai hay ba vấn đề cần nên suy gẫm rằng nếu chúng ta muốn hiểu sự sống bị ảnh hưởng như thế nào và cuộc đời bị ảnh hưởng bởi khả năng của chiêm tinh học, nếu không thì… Chúng ta nên nỗ lực thấu hiểu hiện tượng của các đứa trẻ sinh đôi. Có hai loại sinh đôi. Một là loại sinh đôi giống nhau như đúc, sinh ra từ cùng một trứng. Còn loại kia thì các đứa trẻ, mặc dù sinh đôi, được sinh ra từ hai trứng riêng rẽ. Trong tử cung người mẹ, hai trứng được thụ tinh và hai đứa trẻ ra đời. Loại đầu tiên thì hiếm hoi hơn… Hai hài nhi cùng một trứng. Đây là một chủ đề quan trọng để nghiên cứu, bởi chúng sinh ra cùng lúc. Qua sự cần thiết, chúng ta gọi chúng là trẻ con sinh ra cùng một trứng. Bạn nên hiểu là sự sinh sản là hiện tượng nước đôi. Khía cạnh đầu tiên của sinh sản là thai nghén. Sự sinh sản thật sự bắt đầu vào ngày mà hài nhi tượng hình trong tử cung người mẹ. Đây là sự ra đời thật sự. Cái mà bạn gọi là ra đời chỉ là sự sinh sản thứ hai… khi đứa trẻ được sinh ra từ tử cung người mẹ. Nếu chúng ta khảo sát tử vi một cách toàn diện… như tín đồ Ấn Giáo đã thành tựu, và thành tựu rất mỹ mãn… rằng sự quan tâm thật sự của chúng ta sẽ không bắt đầu khi hài nhi mới ra đời mà là từ ngày mà hài nhi bắt đầu cuộc hành trình thật sự trong tử cung người mẹ, khi buồng trứng bắt đầu tượng hình… bởi đó là sự ra đời thật sự. Vì thế, tín đồ Ấn Giáo cảm nhận rằng nếu một hài nhi đặc biệt ra đời, nếu sự thai nghén xảy ra dưới sự sắp xếp của hành tinh và các chòm sao thích hợp với hài nhi đó. Tôi sẽ giải thích với bạn một chút về quá trình này, bởi còn nhiều nghiên cứu trong lãnh vực này và nhiều sự kiện sẽ rõ ràng hơn.
Thông thường, khi hài nhi sinh ra vào sáu giờ sáng bình minh, chúng ta tưởng rằng chòm sao hiện diện trong thời điểm đó sẽ ảnh hưởng đứa trẻ. Quan điểm của tôi thì khác, chủ yếu là khác. Khi hài nhi sinh ra vào sáu giờ sáng, chòm sao không ảnh hưởng chúng. Không. Thay vì vậy, đứa trẻ chọn được sinh ra dưới các chòm sao ảnh hưởng nó như nó muốn được ảnh hưởng. Đây là một hiện tượng cấp tiến khác lạ. Khi đứa trẻ ra đời, nếu chúng ta đào sâu hơn thì đứa trẻ đã chọn thời điểm thai nghén. Mỗi một tâm thức chọn lựa thời gian thụ tinh… khi nó sẽ được chấp nhận vào tử cung, ngay chính khoảnh khắc đó. Thời điểm thụ tinh không quan trọng. Quan trọng là vấn đề toàn vũ trụ đã hiện hành như thế nào trong khoảnh khắc đó và vũ trụ mở cánh cửa của những tiềm năng ngay chính giây phút đó. Khi hai đứa trẻ cùng sinh đôi trong một trứng, thì ngay lúc đó, giai đoạn thụ tinh sẽ như nhau và giờ phút ra đời của chúng sẽ như nhau. Đáng thích thú là cuộc đời của hai đứa trẻ cùng sinh ra trong một trứng thật giống nhau đến mức thật khó mà quyết đoán rằng giờ sinh sẽ không bị ảnh hưởng. Chỉ số thông minh của hai đứa trẻ sinh đôi từ một trứng đồng như nhau. Phân số khác nhau sẽ phát sinh. Người hiểu biết cho rằng bởi vì dụng cụ đo lường của chúng ta mà ra. Ngay cả bây giờ, chúng ta không đủ khả năng khai thác tiêu chuẩn đầy đủ để chúng ta có thể đo lường lượng thông minh. Thậm chí, hai bé sinh cùng một trứng không được dạy dỗ cùng một môi trường, tuy vậy, chỉ số thông minh của chúng vẫn không khác. Thậm chí, dù đứa bé đó được nuôi dưỡng ở Trung Quốc và một đứa trẻ nữa ở Ấn Độ và cả hai không ý thức mối quan hệ giữa hai, sự kiện này vẫn thật. Có nhiều trường hợp xảy ra khi có những đôi song sinh như vậy sống cách xa nhau cho đến tuổi trưởng thành, nhưng chỉ số thông minh của họ không khác. Thật là đáng ngạc nhiên là chỉ số thông minh có có mối liên hệ với tiềm năng của trẻ con lúc mới sinh ra. Khi đôi song sinh cư ngụ ở Trung Quốc bị bệnh cảm, cùng lúc đó, đôi song sinh tại Ấn cũng bị bệnh cảm. Bình thường, đôi song sinh sanh ra từ một trứng chết cùng năm. Cùng nhất là chết cách nhau ba năm, hay là ít nhất là ba ngày nhưng không bao giờ hơn ba năm, nếu một trong đôi song sinh chết đi thì chúng ta có thể giả định là sau ba ngày hoặc trong vòng ba năm, người kia sẽ chết theo. Thái độ, cách cư xử, cảm giác của họ đều song song, và có cả là cả hai lối sống đều giống nhau. Sự giống nhau của họ cũng được thấy trong nhiều sự việc khác… Mỗi người là một bản sao của nhau. Có phải thời điểm ra đời ảnh hưởng đến độ tuổi thọ của họ cùng một thời gian như nhau, rằng chỉ số thông minh của họ đều bằng nhau, rằng lối hành xử của họ cũng giống, rằng khi hai người cùng có cùng một loại bệnh, và hai người đồng khỏe lạ từ một loại thuốc? Giờ sinh thật sự ảnh hưởng đến như vậy?
Khoa chiêm tinh học cho rằng giờ sinh thậm chí còn quan trọng hơn vấn đề này. Cho đến bây giờ, khoa học vẫn chưa đồng ý với chiêm tinh học lắm, nhưng hiện tại thì đã bắt đầu đồng ý. Khi sự đồng ý càng lớn, có một vài cuộc thí nghiệm đã hỗ trợ thêm. Thí dụ, vào thời điểm mà chúng ta phóng vệ tinh nhân tạo vào không gian, chúng ta được biết có một mạng lưới phóng xạ nhiều vô hạn đã liên tục thải ra từ vũ trụ và từ các chòm sao khuếch tán khắp trái đất. Trên trái đất, không có gì bị ảnh hưởng bởi hiện tượng này. Chúng ta biết là biển bị ảnh hưởng bởi mặt trăng, nhưng chúng ta không suy xét đến một sự thật là cùng một tỷ lệ tương đối và muối trong biển cả cũng diễn biến trong cơ thể chúng ta, và tỷ lệ muối chứa trong nước cũng dung chứa trong hàng nghìn vịnh biển. Nếu nước trong biển bị ảnh hưởng bởi mặt trăng, thì làm sao có thể nước trong cơ thể con người không bị ảnh hưởng? Hiện tại, trong mối tương quan này, ba hoặc bốn dữ kiện rõ nét hơn từ những nghiên cứu gần đây nên được chú ý. Thí dụ, vào ngày trăng tròn săp đến, số người mất trí trong thế giới tăng mạnh. Vào ngày cuối cùng tối tăm nhất của ngày mười bốn, ít người bị điên loạn hơn. Vào ngày trăng tròn, thì số người điên nhập dưỡng trí viện đông hơn, và vào ngày cuối cùng của tuần trăng khuyết, có một số lớn người mất trí xuất viện. Nhiều thống kê có sẵn để chứng minh hiện tượng này.
Trong chữ Anh ngữ, có từ “Lunatic”; chữ Ấn độ là Chaandmara. Chaand chỉ mặt trăng, như từ Lunar trong Anh Ngữ. Chaadmara là một chữ cổ, và từ Lunatic cũng có tuổi thọ dài hơn ba nghìn năm. Ba ngàn năm về trước, có tư tưởng đến với con người là mặt trăng gây ra sự điên loạn, nhưng nếu nó gây ra sự loạn trí, thì làm sao có thể tránh lành mạnh? Theo sự phân tích cuối cùng, cấu trúc của bộ não và hóa chất hỗn hợp trong cơ thể cùng như nhau đối với tất cả. Đúng, có lẽ là mặt trăng có ảnh hưởng lớn ở đối với người mất trí mức độ nào đó, người lành mạnh thì nhẹ hơn. Đơn giản là phẩm lượng khác nhau, nhưng không thể nào rằng người lành mạnh hoàn toàn không bị mặt trăng ảnh hưởng. Nếu điều đó là thật, thì không có ai bị phát điên bởi người phát điên đã có một lần lành mạnh. Mặt trăng trước nhất đã gây ảnh hưởng gì đó với người khoẻ mạnh. Giáo sư Brown có làm một cuộc nghiên cứu đáng quan tâm. Ông là người hoàn toàn thiếu niềm tin trong khoa chiêm tinh học. Ông là người không bao giờ tin và trong các bài viết trước khi của ông, ông thường diễu cợt khoa chiêm tinh học. Mặc dù hoài nghi, ông bắt đầu khảo sát. Ông gom góp lá số tử vi, ngày tháng năm sinh của nhiều lãnh tụ nổi tiếng, bác sĩ và những ngành chuyên môn khác, nhưng sau đó ông gặp khó khăn lên bởi ông khám phá là có một số thành viên của một ngành nghề chuyên môn gì đó được sinh ra đó một hành tinh đặc biệt, dưới cùng một chòm sao. Thí dụ, giữa các nhóm chung chung, ảnh hưởng của sao Hỏa trên cuộc đời của họ rất mãnh liệt. Trong cuộc đời của các nhà chuyên môn thì sự ảnh hưởng của sao Hỏa lại vắng bóng. Nghiên cứu mà Brown mang ra có năm ngàn người trong số chung chung, cho thấy rằng cuộc đời của những người này dưới sự ảnh hưởng rất mạnh mẽ của sao Hỏa. Thông thường, khi nhiều người như vậy ra đời, sao Hỏa tăng cao. Giờ sinh của họ là giờ mà Sao Hỏa bắt đầu tăng cao. Ngược lại với hiện tượng này, dù có bao nhiêu nhà chuyên môn trong thế giới này, họ không bao giờ cùng sinh ra trong giờ tăng cao của sao Hỏa. Nếu nó chỉ thỉnh thoảng xảy ra, bạn có thể cho đó là sự ngẫu nhiên, nhưng không thể có hàng trăm ngàn trường hợp ngẫu nhiên như vậy.
Các nhà toán học sinh ra dưới chòm sao đặc trưng; thi sĩ không bao giờ sinh ra cùng một chòm sao. Thỉnh thoảng trong một vài trường hợp có thể ngẫu nhiên, nhưng khi nó diễn biến thì thông thường nó không thể là một sự ngẫu nhiên. Thật ra, có sự khác nhau rất lớn trong cách cư xử giữa mỗi ngành nghề chuyên môn khác nhau. Thí dụ, giữa thi sĩ, toán học gia, và người theo chủ nghĩa hoà bình, nhóm chung chung. Một mặt, có người như Bertrand Russell bảo rằng nên có hoà bình trên thế giới này, và mặt khác, như Nietzxche lại cho rằng chiến tranh mỗi ngày sẽ giúp thế giới này tràn trề ý nghĩa hơn. Giữa hai là sự cuộc biện luận trí năng, hay là sự tranh cãi của các vì sao? Có khoảng cách trí năng giữa họ hay là giờ sinh của họ cũng cách biệt họ? Càng có nhiều nghiên cứu hơn thì càng khám phá ra rằng tài năng của một người được hiển lộ qua giờ sinh. Người hiểu biết, ngay cả một chút về khoa chiêm tinh học cũng nói rằng hiện tượng này xảy ra bởi họ đã sinh ra trúng dưới một chòm sao… Họ sẽ ra đời dưới một chòm sao thích hợp. Nhưng tôi muốn chia sẻ với bạn rằng, mỗi một chúng sinh chọn lựa chòm sao mà họ ra đời. Tùy thuộc vào họ muốn họ trở thành ai… bất kỳ tiềm năng bẩm sinh của họ, và dựa trên toàn bộ mẫu mực của kiếp trước của họ. Mỗi một đứa trẻ, mỗi một sự sống mới… xác định trên giờ phút đặc trưng trước khi nó đi vào. Nó muốn được sinh ra trong thời khắc nhất định, chỉ vào thời khắc đó nó muốn được thai nghén. Sở cầu của nó và giờ phút đó phụ thuộc lẫn nhau.
Như tôi đã chia sẻ với bạn, nước trong biển không độc lập dưới mọi ảnh hưởng nhất định, nhưng tất cả được tạo ra từ nước. Thiếu nước, tất cả sự sống thật khó thể. Vì thế, vào thời cổ đại Hy Lạp, các bậc giác ngộ và các nhà thần bí cũng dạy điều này. Ngày nay, các khoa học gia người tin vào thuyết Tiến hoá cũng cho rằng sự sống được sinh ra từ nước, có lẽ sự sống đầu tiên trên hành tinh này sống trong nước. Đây là sắc tướng đầu tiên của sự sống, con người cuối cùng tiến hoá. Nước là nguyên tố bí ẩn nhất của tất cả. Bất cứ ảnh hưởng gì của các chòm sao đến với con người qua vũ trụ, qua không gian, thông qua trung gian của nước. Có lần ảnh hưởng bởi nước trong cơ thể con người, chất phóng xạ có thể đi vào họ. Nhiều việc cần phải thành toàn với nước, và nhiều bí mật liên quan đến nước đều được con người quan tâm. Bí mật lớn nhất của nước được sự chú ý của các khoa học gia trong thập niên qua là nước có dung chứa mức độ nhậy cảm. Bất kỳ mọi ảnh hưởng tác động mọi chiều hướng trước tiên cảm giác qua nước. Nước trong chúng ta là sự vật đầu tiên bị ảnh hưởng. Một khi nước trong chúng ta bị ảnh hưởng, thì sẽ rất khó khăn cho chúng ta tránh bị ảnh hưởng. Bạn sẽ ngạc nhiên khi được biết rằng khi một đứa trẻ bơi lội trong tử cung người mẹ, nó bơi như bơi trong biển cả. Nước trong tử cung người mẹ mà đứa trẻ bơi lội có cùng tỷ lệ lượng muối hiện diện trong biển. Mọi ảnh hưởng gì từ tử cung người mẹ đến hài nhi thì không đến với nó trực tiếp; giữa người mẹ và đứa bé tăng trưởng trong tử cung cô không có mối liên hệ trực tiếp. Nước là sự trung gian. Ảnh hưởng gì đến từ người mẹ thường thông qua trung gian của nước; không có mối liên hệ trực tiếp. Suốt cuộc đời của chúng ta, nước trong cơ thể chúng ta hoạt động như nước trong biển cả.
Cá trong biển cần nhiều nghiên cứu. Có loài cá đến bờ biển và đẻ trứng khi thủy triều xuống, khi thủy triều rút xuống, cá theo sóng lên bờ để trứng và trở về với sóng biển. Ở một thời điểm cố định, thủy triều vỗ vào bờ. Trứng sẽ vỡ ra và cá con chui ra. Những đợt thủy triều lại đưa cá con trở về với biển. Các khoa học gia nghiên cứu những loài cá này vô cùng kinh ngạc, bởi cá luôn đẻ trứng vào thời điểm thủy triều rút xuống. Nếu chúng đẻ trứng khi thủy triều lên thì trứng sẽ bị trôi đi theo dòng nước. Chúng đẻ trứng khi thủy triều rút xuống và chờ một chút thời gian khi sóng biển rút xuống dần. Thủy triều sẽ không vỗ vào bờ lần thứ hai nơi chỗ mà chúng đẻ trứng, nếu không thì nước sẽ cuốn trứng trôi hết vào lòng biển. Các khoa học gia vô cùng thắc mắc là làm sao các loài cá này biết khi nào thủy triều rút xuống… vào thời điểm nào mà thủy triều lùi xa dần. Nếu thậm chí có một lỗi lầm nhỏ nào trong việc tính toán thời gian, trứng sẽ bị sóng cuốn trôi đi, nhưng chúng không bao giờ phạm lỗi lầm trong hàng trăm ngàn năm qua. Nếu chúng phạm lỗi lầm thì chúng sẽ bị diệt chủng như các loài động vật khác, nhưng chúng không bao giờ sai lầm. Dụng cụ gì mà các loài cá này có để chúng biết về sóng biển? Giác quan gì mà cá có để chỉ bảo chúng khi nào thủy triều rút xuống? Một trăm ngàn loài cá sẽ đồng tụ tập ở một thời điểm cùng khắp bờ biển… Chắc chắn là phải có ký hiệu gì đó, hệ thống cơ chế dữ kiện nằm trong các loài cá này. Một trăm ngàn con cá sẽ vượt hàng nghìn dặm xa xôi để đẻ trứng trên bờ biển… và cùng một thời gian.
Người nghiên cứu hiện tượng này cho rằng ngoài mặt trăng thì không có nguồn gốc nào khác. Mặt trăng là nguồn gốc trực giác của cá, không có gì khác nữa. Từ trực giác mà loài cá biết rằng thủy triều đang rút xuống và khi nào thủy triều lên. Tác động của mặt trăng là cách duy nhất để chúng biết về sóng biển. Có một khả năng khác nữa. Có sự ước đoán rằng các loài cá này không hiểu sao được cung cấp tin tức qua thủy triều. Vì thế, các khoa học gia đặt cá ở một nơi mà không có sóng biển, trong một phòng tối, nhưng kết quả lại thật là đáng kinh ngạc. Loài cá bị bao phủ bởi bóng tối, thiếu mặt trăng, nhưng khi mặt trăng vừa đạt đến một điểm chính xác nào đó thì cá trong biển sẽ đẻ trứng trên bờ biển, chính xác giờ phút mà biển trong phòng thí nghiệm đẻ trứng. Dữ kiện này cho thấy hiện tượng gì? Không phải là vấn đề của sóng biển. Có người có lẽ chỉ là cuộc đua chỉ bắt đầu khi loài cá nhịn được ký hiệu của nhau, nhưng giả thuyết này cũng không chính xác. Khoa học gia chứng kiến loài cá trong mọi đường hướng. Họ đã đặt cá trong bóng tối trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ để cá không thể phân biệt ngày và đêm. Họ quan sát những con cá này sau khi đặt chúng dưới ánh sáng chói lọi trong hai mươi bốn giờ đồng hồ để loài cá sẽ không phân biệt được ngày đêm. Họ quan sát chúng sau khi tạo một mặt trăng giả, và mỗi ngày họ tăng hay giảm độ sáng của nó, nhưng loài cá không hề bị gạt. Khi mặt trăng thật đạt đến được một điểm nào đó, và đúng thời điểm của vầng trăng thật thì chỉ ngay giây phút đó, cá đẻ trứng. Dù là chúng ở đâu, chúng sẽ đẻ trứng ngay đúng thời khắc đó.
Một trăm ngàn con chim mỗi năm bay hàng trăm dặm đường. Mùa đông sắp đến, tuyết sẽ đỗ xuống, vì thế chim chóc bắt đầu bay xa các khu vực mà có tuyết rơi. Chúng sẽ ngừng ở một nơi xa cách ngàn dặm. Để đến chỗ cắm trại của chúng, phải cần hai tháng. Các chú chim này rời đúng một tháng trước khi tuyết rơi. Vào thời điểm chim bay tìm chỗ ấm thì tuyết vẫn chưa rơi, nhưng sau đó, chính xác một tháng sau thì tuyết sẽ rơi. Làm sao các con chim đó có thể tính toán được ngày ngày nào mà tuyết có thể rơi? Nhân viên đài khí tượng người có các đài Thiên Văn công phu nhất cũng không thể có được dữ kiện chính xác như vậy. Tôi có nghe một vài nhân viên Đài Khí Tượng hỏi một chiêm tinh gia ngồi bên đường, “Ngài nghĩ ra sao…Ngày hôm nay có mưa hay là không?” Sự chuẩn bị của con người có vẻ non nớt. Chim chóc biết trước một tháng rưởi hoặc hai tháng trước khi tuyết rơi. Sau hàng nghìn cuộc thí nghiệ, ngày mà chim bay tìm chỗ ấm cố định cho mỗi loài chim. Mỗi năm, cái ngày đó thay đổi, bởi không có ngày cố định khi nào tuyết sẽ rơi, nhưng chắc chắn rằng mỗi con chim sẽ bay trước một tháng trước khi tuyết rơi. Nếu tuyết rơi muộn mười ngày vào năm rồi, thì chúng sẽ bay tìm chỗ ấm mười ngày sau. Nếu tuyết rơi mười ngày sớm hơn thì chúng sẽ bay mười ngày sớm hơn. Nếu ngày tuyết rơi không chắc chắn, thì loài chim sẽ được báo tin như thế nào?
Tại Nhật, có loài chim sẽ di tản ra khỏi thành phố trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ trước khi cơn địa chấn xảy ra. Đây chỉ là loài chim bình thường trong thành phố. Mỗi thành phố thí có nhiều loài chim khác nhau, nhưng hai mươi bốn tiếng đồng hồ trước khi động đất xảy ra thì các loài chim này sẽ di tản khỏi thành phố, thậm chí hai giờ trước đó. Hai giờ trước đó, chúng không cho chắc chắn, chúng không chắc chắn. Chỉ là độ xác xuất, có khả năng xảy ra là địa chấn sẽ xảy ra. Nhưng tại Nhật, mọi người biết trước hai mươi bốn tiếng đồng hồ rằng sẽ có động đất xảy ra. Bất cứ thành phố nào mà chim bắt đầu di tản thì dân chúng ở thành phố đó sẽ biết là chỉ có trong hai mươi bốn giờ đồng hồ là sẽ có động đất. Chim chóc đều di tản, không có một loài nào là còn lại trong thành phố. Loài chim được thông tin bằng cách nào?
Cả thập niên qua, khoa học gia đã nghiên cứu một điều mới lạ… rằng mỗi sinh vật có một giác quan bên trong cảm giác được thế giới bên ngoài. Có lẽ con người cũng có nó, nhưng đã bị mất đi qua thông qua sự lệ thuộc vào của họ. Con người là loại động vật tri thức duy nhất sống trên thế gian này, đã bị mất nhiều tiềm năng mà họ có. Thông qua cùng tiềm năng sáng tạo, họ cũng gặt hái được nhiều điều mà họ không có, nhưng đây là một sự mất mát lớn. Cái mà họ có và bị đánh mất. Cái mà họ không có họ phát minh, nhưng thậm chí loài sinh vật nhỏ bé nhất cũng sở hữu được nguồn trực giác nội tại. Và ngày nay, nhiều dữ kiện khoa học sẵn có để chứng minh nguồn nội tại này. Sự khám phá nguồn nội tại này giúp chúng ta nhận thức rằng không có một sự sống nào trên trái đất cách biệt hoặc riêng rẽ. Mỗi sự vật đều nối kết trong vũ trụ này. nếu có chuyện gì xảy ra dù là ở nơi nào, kết quả của nó sẽ bắt đầu cảm giác ở đây. Tôi đang đề cập về Paracelsus… Thời nay, các bác sĩ cũng đưa đến kết luận rằng có những vết đen xuất hiện trên mặt trời, bệnh tật trên trái đất tăng cao. Mỗi khi các đốm đen trên mặt trời giảm xuống thì bệnh tật trên mặt đất cũng giảm xuống. Khi có nhiều sự bùng nổ và hỗn loạn diễn tiến trên mặt trời thì cùng lúc đó, chiến tranh và nhiều sự hỗn độn xảy ra trên trái đất. Chiến tranh xảy ra trên trái đất luôn theo chu kỳ mười năm. Bệnh dịch cũng theo từng chu kỳ mười năm hoặc mười một năm. Các cuộc cách mạng cũng theo chu kỳ chính xác là mười năm hoặc mười một năm. Một khi bạn nếm được ý tưởng rằng chúng ta không riêng rẽ hoặc cách biệt nhưng mà cùng liên kết theo một đường lối hữu cơ, thì sẽ thấu hiểu chiêm tinh học dễ dàng hơn. Đó là tại sao tôi giải thích tất cả vấn đề này với bạn. Có vài người nghĩ rằng, và thậm chí bây giờ vẫn còn nghĩ rằng, chiêm tinh học là mê tín dị đoan. Điều này có vẻ đúng ở mức độ nào đó. Có nhiều điều thật khó giải thích một cách khoa học có vẻ chỉ dựa trên đức tin mù quáng, nhưng khoa chiêm tinh học rất khoa học. Ý nghĩa khoa học là sự khảo sát mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả. Khoa chiêm tinh học thì bảo rằng khuôn mẫu của tương lai không thể độc lập từ quá khứ nhưng chắc chắn liên kết với nó. Khoa chiêm tinh học cho rằng bất kỳ hiện tượng gì xảy ra trên trái đất không vô nguyên nhân. Tuy vậy, có lẽ chúng ta không ý thức được nguyên nhân. Con người của bạn ở tương lai sẽ liên kết với con người bạn hôm nay. Con người quá khứ của bạn kết hợp với con người của bạn vào ngày mai. Khoa chiêm tinh học là một con đường tư duy khoa học nhất. Nó cho rằng tương lai bắt nguồn qua quá khứ. Ngày hôm nay của bạn phát xuất từ ngày hôm qua của bạn. Tương lai của bạn sẽ bắt nguồn từ ngày này của bạn. Khoa chiêm tinh học cũng cho rằng bất kỳ hiện tượng gì xảy ra trong tương lai đã hiện diện một cách vi tế thậm chí ngày hôm nay. Hãy cố gắng hiểu tận tường một chút nữa.
Ba ngày trước khi bị ám sát, tổng thống Hoa Kỳ, Abraham Lincoln nằm mộng thấy ông bị sát hại và tử thi của ông nằm trong một căn phòng đặc biệt trong tòa Bạch Ốc. Thậm chí, ông thấy được số phòng của ông. Ngay lúc đó thì giấc chiêm bao chấm dứt và khi ông thức dậy, ông bật cười. Ông bảo vợ, “Tôi nằm mơ thấy tôi bị giết và thi thể của tôi nằm ở căn phòng số như vậy và như vậy trong tòa Bạch Ốc. Em đứng ở đầu quan tài của anh và có nhiều người đứng luẩn quẩn trong căn phòng này.” Đây là một chuyện cười đối với ông. Lincoln và vợ ông trở lại giấc ngủ. Ba ngày sau, Lincoln bị ám sát. Ba ngày sau, thi thể của ông được đặt trong căn phòng với số như vậy và trong căn phòng đó, mọi người tụ tập chung quanh thi thể ông. Nếu chuyện gì xảy ra trong ba ngày vốn chưa từng xảy ra thì tại sao một giấc mơ như vậy lại có thể xảy ra? Tại sao một giấc mơ như vậy diễn tiến rất tỉ mỉ, chính xác theo thứ tự diễn tiến? Chỉ một thoáng được thấy trong giấc mơ đã ứng dụng trong khoảnh khắc hiện tại thì chỉ có vậy, chúng ta sẽ thấy được những gì diễn biến trong tương lai. Nếu chúng ta mở được cánh cửa hiện tại, thì chúng ta sẽ đủ khả năng thấy được tương lai ngoài cánh cửa đó. Chính đề của khoa chiêm tinh học rằng tương lai đơn thuần là sự vô minh của chúng ta là như vậy. Nó là “Tương lai”, từ đó thì tương lai sẽ không “xảy ra” với chúng ta… Chúng ta sẽ biết nó đã tồn tại ngay bây giờ và ở đây. Có một giai thoại diễn tiến trong cuộc đời của Mahavira, từng xảy ra nhiều tranh cãi. Bởi sự tranh cãi này, một số đệ tử của ngài đã tách khỏi ngài, trong chính sự hiện diện của ngài. Bởi vấn đề tranh cãi này, năm trăm đệ tử của Mahavira lập ra một giáo đoàn riêng. Mahavira thường dạy rằng bất kỳ những gì diễn tiến theo một vài ý nghĩa thì đã diễn tiến rồi. Nếu bạn đang tản bộ, thì theo ý nghĩa bạn đã đến mục tiêu của bạn rồi. Nếu bạn đang bắt đầu già nua thì bạn đã già nua rồi. Mahavira thường cho rằng bất kỳ hiện tượng gì xảy ra, bất kỳ hiện tượng gì đang trong tiến trình, đã xảy ra rồi.
Một đệ tử cao cấp của Mahavia sống cách xa ngài trong mùa an cư. Ông bị bệnh, nên ông nhờ một đệ tử đẳng cấp thấp hơn, có mặt ở đó, trải giùm ông tấm thảm. Đệ tử này trải thảm cho ông. Ông vừa tháo giây buộc, trải tấm thảm ra thì người đệ tử đẳng cấp cao này chợt nhớ lời dạy này của Mahavira nên kêu lên, “Hãy ngừng ngay! Mahavira dạy rằng những gì xảy ra đã xảy ra rồi.” Tấm thảm đang trên quá trình trải ra nhưng vẫn chưa trải ra. Đột ngột, ông chợt nhận thấy rằng Mahavira đã dạy sai. Tấm thảm được trải ra mới chỉ một nửa mà thôi, nhưng làm sao nó đã được trải ra rồi? Ông để tấm thảm ngay tại đó. Sau cuộc an cư kiết hạ, ông tìm đến Mahavira và bảo, “Bạch thầy, Ngài đã sai khi ngài cho rằng những hiện tượng gì đang diễn tiến đã xảy ra rồi, bởi vì tấm thảm chỉ mới được trải ra một nửa mà thôi. Vì vậy, con đến đây chứng minh rằng thầy đã sai.” Mahavira dạy ông rằng ông đã hiểu lầm lời dạy này của ngài. Đệ tử này chắc chắn có một tâm trí vô cùng trẻ con, nếu không ông đã không đến với lời nói như vậy. Mahavira bảo, “Con đã kết thúc tiến trình của nó. Nó đang diễn tiến nhưng con đã ngăn chặn nó. Tấm thảm mà con ngăn chặn không cho trãi ra, trong thực tế, đã thật sự thành sự thật rồi. Con chỉ thấy tấm thảm trong quá trình trải ra, nhưng còn một quá trình nữa chưa xảy ra. Vì vậy, tấm thảm của con sẽ không trải ra trong thời gian bao nhiêu lâu? Nó đang trải ra và sẽ trải ra. Con trở lại mà xem.” Khi người đệ tử quay trở lại thì ông thấy có một người đang trải tấm thảm nằm trên sàn. Người này đã đảo lộn hết luận cứ của người đệ tử. Mahavira thường dạy rằng bất kỳ hiện tượng gì diễn tiến đã diễn tiến rồi. Ngài dạy rằng bất kỳ hiện tượng gì đang xảy ra trong hiện tại, đã xảy ra trong tương lai. Nụ hoa sắp nở ở một nơi nào đó đã nở nụ, trở thành một đóa hoa. Bây giờ có một nụ hoa đang trên tiến trình nở rộ thành một đóa hoa, nhưng nếu nó đang nằm trong quá trình nở rộ thành hoa thì nó sẽ thành đóa hoa. Sự nở rộ của hoa cũng đã diễn tiến ở một lúc nào đó rồi.
Chúng ta có thể xem xét từ một góc độ khác, sẽ khó khăn một chút. Chúng ta luôn xem xét từ quan điểm của quá khứ. Nụ hoa đang nở rộ, nhưng tư tưởng của chúng ta thường định hướng quá khứ… ràng buộc trong quá khứ. Chúng ta cho rằng nụ hoa đang nở rộ. Nó đang nở rộ thành một đóa hoa và nụ hoa sẽ trở thành một đóa hoa, nhưng trường hợp có lẽ đối nghịch lại. Thí dụ, nếu tôi đẩy bạn từ sau lưng, bạn ngã về phía trước, nhưng có lẽ có người đã đẩy bạn trước đó rồi. Sự chuyển động có thể hai chiều. Tôi đẩy bạn từ phía sau nhưng có lẽ có người kéo bạn hướng về phía trước. Có lẽ có người đẩy bạn trước, không có ai đẩy bạn từ sau lưng cả. Trong trường hợp này, bạn sẽ tiến về phía trước. Khoa chiêm tinh học nhận thức sự chưa đầy đủ của quan điểm này, và rằng quá khứ cho bạn sức đẩy tới và tương lai xảy ra như một kết quả. Nếu có người thấy hiện tượng trong sự trọn vẹn của nó, họ thấy rằng quá khứ đang cung cấp lực đẩy tới, nhưng cũng trong tương lai đang lôi kéo, một lực hấp dẫn. Nụ hoa trở thành đóa hoa là tất cả đang diễn tiến. Đóa hoa mời gọi nụ hoa nở rộ thành đóa hoa. Nó đang lôi cuốn. Quá khứ sau lưng, tương lai trước mặt. Bây giờ trong giây phút thực tại, có một nụ hoa. Toàn bộ quá khứ đang lôi cuốn nụ hoa trở thành đóa hoa và toàn bộ tương lai đang mời gọi nụ hoa nở rộ thành đóa hoa. Dưới sức ép của hai chiều hướng, quá khứ và tương lai, nụ hoa trở thành đóa hoa. Nếu không có tương lai, thì quá khứ chính nó sẽ không đủ khả năng tạo ra đóa hoa, dù bạn có lôi cuốn nó đến mức nào. Nếu không tương lai, thì dù quá khứ nỗ lực như thế nào, cũng sẽ vô dụng. Dù tôi có đẩy bạn đàng sau mạnh đến mức nào, nếu có bức tường trước mặt tôi không thể đẩy bạn tới trước. Không gian cần có để tiến về phía trước. Nếu tôi đẩy bạn và có không gian trước mặt chấp nhận bạn với sự mời mọc, “Hãy lại đây. Hãy là khách của tôi.” Thì chỉ có lực đẩy của tôi mới quan trọng. Đối với lực đẩy của tôi, không gian trong tương lai cần có. Quá khứ thành toàn công việc; Tương lai cung cấp không gian.
Tương lai luôn mời gọi, hướng chúng ta tới trước. Chúng ta không biết, không nhận thức. Theo quan điểm của khoa Chiêm tinh học, nhìn về quan điểm này thì chỉ quá khứ thì không đủ và chỉ có một phần khoa học. Tương lai luôn mời gọi, lôi kéo chúng ta hướng về trước. Đây là yếu điểm của chúng ta, luôn thiển cận, không thấy xa. Về tương lai, không có gì biểu thị cho chúng ta. Nếu bạn ngắm nhìn Kundali của Kristnamurti một vài lần, bạn sẽ kinh ngạc. Nếu Annie Besant hay Leadbeater để tâm xem xét lá số tử vi của Kristnamurti trước thì họ sẽ nhận thấy rằng làm việc với Kristnamurti là một sự sai lầm bởi lá số tử vi của Kristnamurti cho thấy rõ ràng rằng nếu Kristnamurti thuộc về bất cứ đoàn thể nào thì ông sẽ hủy diệt đoàn thể đó. Lá số tử vi của ông hiển lộ cho thấy là bất cứ giáo đoàn nào mà ông thuộc về, ông sẽ làm nó tan rã. Bất kỳ giáo đoàn nào mà ông gia nhập, ông sẽ làm cho nó bị chết, nhưng Annie Besant không sẵn sàng chấp nhận điều này. Không ai có thể suy nghĩ về việc đó, nhưng đây là sự kiện đã xảy ra. Hội Thông Thiên Học nỗ lực xây dựng Kristnamurti trở thành lãnh tụ của nó. Hội Thông Thiên Học nỗ lực vì Kristnamurti và phong trào đó phải suy tàn vĩnh viễn. Annie Bensant xây dựng một phong trào lớn được gọi là Ngôi Sao của Phương Đông, chỉ dành cho Kristnamurti. Cuối cùng vào một ngày, sau khi hết cảm hứng với phong trào này, Kristnamurti rời khỏi nó. Annie Besant đã hy sinh suốt cuộc đời của mình để xây dựng phong trào đó, và hủy diệt bà trên nó, nhưng Kristnamurti không thể bị đổ lỗi. Ngôi sao dưới giờ sinh mà ông ảnh hưởng đã cho thấy rõ ràng rằng ông sẽ hủy diệt và là một lực lượng hủy diệt bên trong bất kỳ hội đoàn nào.
Tương lai hoàn toàn không chắc chắn. Kiến thức của chúng ta không chắc chắn. Sự vô minh của chúng ta thì nặng nề. Không có gì trong tương lai hiển thị cho chúng ta. Chúng ta đui mù, không có gì trong tương lai hiển lộ cho chúng ta. Bởi không có gì có vẻ hiển lộ cho chúng ta, chúng ta cho rằng nó không chắc chắn, nhưng có một cái gì trong tương lai hiển lộ cho chúng ta… và khoa Chiêm tinh học không chỉ nghiên cứu các chòm sao và hành tinh hay là tính toán sự quan trọng của chúng. Đây là chỉ là một bình diện của khoa Chiêm tinh học. Có các bình diện khác để nhận biết tương lai. Ai cũng có đường chỉ trong tay họ, trên trán họ, trên gót chân họ, nhưng điều đó thì chỉ trên bề mặt. Trong cơ thể con người, có các luân xa ẩn tàng. Mỗi luân xa có cảm quan riêng của chúng. Mỗi luân xa chấn động theo cách riêng của chúng, theo tần số của chúng trong mọi thời gian. Có nhiều cách để xem xét chúng là gì. Bản thể con người được che dấu trong họ ấn tượng tinh thần hoặc hạt giống của quá khứ. Ron Hubbard đặt ra một thuật ngữ mới ở Tây phương. Đối với Đông phương, nó cổ xưa rồi. Tên của môn khoa học này được gọi là vết thời gian. Hubbard tư duy rằng trong bất kỳ hình tướng nào của con người, như một con người hay là một con vật, dù là cây cỏ hay là sỏi đá, trong bất kỳ sắc tướng nào qua vô lượng kiếp của họ, toàn bộ dòng chảy của ký ức vẫn chứa đựng trong họ. Dòng chảy này có thể phơi bày, và con người có thể, thậm chí tái kinh nghiệm những ký ức đó.
Trong tất cả mọi nghiên cứu của Hubbard, đây là sự khám phá giá trị nhất. Về dấu vết thời gian, Hubbard bảo rằng trong con người có những vết tích. Ngược lại, chúng ta sở hữu ký ức mà chúng ta nhớ lại chuyện xảy ra ngày hôm qua và chuyện xảy ra trước đó. Đây là “ký ức” làm việc của chúng ta, ký ức mỗi ngày của chúng ta. Nó trở nên vô dụng mỗi ngày. Trong thực tế, nó không tồn tại… nó không thường hằng. Đây là ký ức làm việc thông qua tạo tác của chúng ta mỗi ngày, và qua mỗi ngày đó, chúng ta ném nó đi, nhưng thậm chí sâu sắc hơn là bộ ký ức không chỉ thành toàn tạo tác, vốn là sự sống của chúng ta, tổng số toàn bộ kinh nghiệm của chúng ta, thực chất cốt lõi kinh nghiệm của hằng vô lượng kiếp sống. Hiện tượng này, Hubbard gọi là vết tích, nó ăn sâu trong chúng ta. Nó nằm trong sự toàn bộ của nó, ẩn tàng thật sâu bên trong, chỉ như cuộn băng được giữ chặt trong túi áo của bạn. Nó có thể mở ra, và khi nó được mở ra, nó trở thành cái mà Mahavira gọi là ký ức dòng giống, còn Hubbard gọi là dấu vết thời gian. Khi nó mở ra kinh nghiệm không phải là bạn đang tưởng nhớ. Nó không được tư duy như bạn đang nhớ. Bạn sống lại kinh nghiệm đó. Hiện giờ thì nó được mở khóa ra. Khi vết tích thời gian được mở khóa rồi, bạn không cảm nhận rằng, “Tôi đang tưởng nhớ.” Không. Bạn đang sống nó. Nếu dấu vết thời gian của bạn được mở khóa rồi thì sẽ không khó khăn lắm. Hãy nỗ lực thấu hiểu. Trong thực tế, thiếu nó, khoa Chiêm tinh học sẽ không đầy đủ. Sự nhận thức lớn lao nhất trong khoa Chiêm tinh học là quá khứ của bạn được mở ra… bởi nếu bạn trở nên nhận thức toàn bộ quá khứ, bạn sẽ nhận thức được toàn bộ tương lai của bạn, bởi tương lai của bạn sẽ phát xuất từ quá khứ của bạn. Thiếu sự hiểu biết quá khứ, bạn không thể biết được tương lai của bạn, bởi tương lai của bạn là đứa trẻ của quá khứ của bạn. Tương lai của bạn sẽ ra đời từ quá khứ. Vì vậy, trước hết, đây là một nhu cầu mà toàn bộ vết tích của ký ức có thể phơi bày để được thấy. Nếu dấu ký ức được mở khóa, và đối với sự kiện này có nhiều phương pháp và phương tiện. Nếu bạn cho rằng bạn sẽ nhớ lại thời thơ ấu lúc bạn chỉ là đứa bé sáu tuổi và cha của bạn tát bạn, bạn đã sai. Bạn sẽ không nhớ bạn như thế nào khi bạn là một đứa trẻ sáu tuổi. Bạn sẽ sống lại nó.
Bạn sẽ sống lại sự kiện đó. Cũng như vậy, trong thời gian bạn sống lại sự kiện đó, nếu tôi hỏi, “Tên của bạn là gì?” Bạn sẽ đáp, “Junior” mà không phải là “William Smith Junior” Một đứa trẻ sáu tuổi đang trả lời. Bạn sống lại sự kiện đó trong thời gian đó. Bạn sẽ không nhớ. William Smith không thể rằng anh là đứa trẻ sáu tuổi. Không William Smith đã trở thành một đứa trẻ sáu tuổi. Hiện tại, anh trả lời “Junior”, bất kỳ câu trả lời nào của anh cũng sẽ là câu trả lời của một đứa trẻ sáu tuổi. Nếu bạn được mang trở lại quá khứ, bạn sẽ nhớ bạn là con sư tử thì bạn được cho phép trú xứ ở thời điểm đó, bạn sẽ bắt đầu gầm lên như một con sư tử. Bạn sẽ không nói chuyện trao đổi như một con người. Rất có thể bạn sẽ tấn công ai đó với những móng vuốt của bạn. Nếu bạn nhớ bạn là sỏi đá, và có người hỏi bạn một câu gì, thì bạn sẽ hoàn toàn im lặng. Bạn sẽ không đủ khả năng để trả lời. Bạn sẽ im lặng như một tảng đá. Hubbard đã giúp cho hàng nghìn người. Thí dụ, có người nào không thể nói chuyện. Hubbard sẽ cho rằng người này bị chướng ngại bởi ký ức thời thơ ấu và không thể tiến tới. Sau đó, ông sẽ mang bệnh nhân trở lại dấu vết thời gian của họ và mở khóa vết tích thời gian của họ khi họ chỉ là một đứa trẻ sáu tuổi, hay là ở đoạn thời gian khi sự tăng trưởng của họ bị chướng ngại và họ không thể tiến tới. Khi họ trở về điểm đó, ảnh hưởng của ký ức thời thơ ấu sẽ tản mác. Từ đó, họ sẽ trở lại với cái tuổi ba mươi. Hai mươi bốn năm khác biệt sẽ gạt qua một bên. Vấn đề đáng kinh ngạc là hàng nghìn loại thuốc men không thể giúp người này nói chuyện được, nhưng khi đi ngược lại dấu vết thời gian, họ đủ khả năng để có thể nói chuyện.
Có nhiều căn bệnh đến với bạn chỉ vì dấu vết thời gian này. Có nhiều căn bệnh thích hợp với phân loại này. Thí dụ, bệnh cảm hay bệnh suyễn. Đối với bệnh nhân bị bệnh cảm, có một ngày cố định, mỗi năm, cũng vào ngày đó, thì bệnh cảm trở về. Vì thế, không có thuốc chữ cho bệnh cảm này. Tại sao? Vì bệnh cảm không thật sự là căn bệnh của thân mà là căn bệnh vết tích thời gian. Ở một góc nào đó, ký ức đã bị cố định và đã bị chướng ngại. Thí dụ, có người có lẽ nhớ rằng mỗi ngày thứ mười hai của mỗi tháng trong mùa mưa. Khi ngày mười hai đến, người này đã sẵn sàng. Họ đã sợ hãi với sự việc diễn tiến rồi. Bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng họ bị bệnh cảm bởi họ đã sống lại nó… vốn không thật là bệnh cảm. Họ chỉ sống lại với những diễn biến xảy ra trong ngày mười hai, năm qua. Nếu bạn điều trị cho họ bây giờ, bạn sẽ chỉ gây thêm khó khăn cho họ. Sự chữa trị không mang đến lợi ích gì bởi họ không là con người hiện diện một năm trước đó và chỉ có người ở thời gian đó mới có thể được điều trị. Bạn đã ném thuốc men một cách không cần thiết. Không có sự tương quan giữa hai, không có mối liên hệ nào. Mỗi loại thuốc đều thất bại. Mỗi loại thuốc sẽ làm tăng thêm bệnh cảm của họ. Vì thế, họ sẽ cho rằng không có gì xảy ra. Một lần nữa, họ sẽ chuẩn bị đã lặp lại sự kiện xảy ra của năm qua.
Bảy mươi phần trăm căn bệnh của chúng ta đã xảy ra thông qua dấu vết thời gian… Chúng đã bị dính mắc và bị nắm bắt quá chặt chẽ nên chúng ta đã nhiều lần sống lại chúng. Khoa Chiêm tinh học không đơn thuần là sự nghiên cứu của các chòm sao, mặc dù nó bao hàm luôn cả việc đó. Chúng ta sẽ nói thêm về nó. Ngoài sự nghiên cứu các chòm sao, còn có những bình diện khác mà khoa Chiêm tinh học đang nỗ lực chứng minh, bởi qua nó, chúng ta có thể nắm bắt được tương lai. Để trở nên ý thức tương lai, đây là một sự cần thiết để ý thức quá khứ. Để ý thức quá khứ, rất cần đọc mọi khắc ghi trên thân tâm của chúng ta. Trên thân có dấu khắc ghi và tâm cũng vậy. Từ thời điểm mà khoa Chiêm tinh học trở nên ám ảnh với sự khắc ghi của thân, nó không thể đi sâu bởi dấu khắc trên thân rất nông cạn. Nếu tâm trí bạn phải qua một sự thay đổi, thì đường chỉ tay của bạn sẽ thay đổi. Nếu dưới sự thôi miên, bạn được cam đoan rằng sau ngày mười lăm bạn sẽ chết, và nếu mỗi ngày trong mười lăm ngày đó, bạn sẽ vô thức và quả quyết với trong trạng thái vô thức đó rằng sau ngày mười lăm bạn sẽ chết dù bạn thích hay là không, thì qua ngày mười lăm, đường chỉ tay của bạn sẽ gẫy đổ. Một khoảng cách sẽ hiện ra trên đường chỉ tuổi thọ của bạn và thân bạn chấp nhận rằng tử thần đang trên hành trình của nó. Đường chỉ tay trên thân là một hiện tượng vô cùng nông cạn. Tận cùng bên trong là tâm trí. Tâm trí mà bạn vốn quen thuộc, tuy vậy, không tồn tại sâu lắm. Nó rất hời hợt. Tận cùng là tâm trí mà bạn không hề nhận biết. Các trung tâm hiện diện sâu thẳm trong thân độc lập mà Du già gọi là Luân xa, được tích lũy qua sắc tướng của hằng vô lượng kiếp. Người biết họ có thể, bằng cách đặt tay trên một luân xa đặc trưng nào đó, khám phá nó hoạt động mãnh liệt như thế nào. Bằng cách va chạm bẩy luân xa của bạn, nó có thể được nhận biết dù bạn có kinh nghiệm nó hay là không.
Tôi đã kinh nghiệm với luân xa của hàng trăm người và tôi đã ngạc nhiên khi khám phá ra rằng cùng lắm là một hay hai, hay hiếm hoi hơn là ba luân xa đã bắt đầu hoạt động. Thông thường, chúng ngủ yên. Bạn không bao giờ sử dụng chúng, nhưng chúng là quá khứ của bạn. Nếu người nào kinh nghiệm chúng thường tìm tới tôi và tôi có thể thấy bẩy luân xa của họ đang chuyển động. Vì thế, có thể nói rằng đây là kiếp cuối cùng của họ, sẽ không còn kiếp tới, bởi nếu tất cả bẩy luân xa đều chuyển động thì không còn tiềm năng cho kiếp tới. Cuộc đời này sẽ là Niết bàn và là sự Giải thoát. Nếu có người đến Mahavira, sự quan tâm của họ là làm thế nào khám phá có bao nhiêu luân xa đang hoạt động trong họ. Bao nhiêu sự tu tập cần phải thành tựu trên họ, khả năng gì mà họ có, khi nào và sự tu tập của họ có đạt được kết quả hay là không, và có bao nhiêu kiếp sống nữa họ phải thông qua. Khoa Chiêm tinh học nỗ lực chứng minh tương lai bằng nhiều con đường. Con đường thông thường nhất là nghiên cứu hành tinh và các chòm sao ảnh hưởng con người như thế nào. Đối với vấn đề này, có nhiều bằng chứng khoa học sẵn có mỗi ngày. Vấn đề này đã được quyết định, rằng cuộc đời là một sự ảnh hưởng và không thể trốn tránh không bị ảnh hưởng bởi các ảnh hưởng đó. Chỉ phần thứ hai là khó quyết định… là mỗi con người như một cá nhân cũng bị ảnh hưởng. Nó làm các khoa học gia phải bận tâm là mỗi con người bị ảnh hưởng như một cá nhân trong ba hay bốn tỷ người trên trái đất này, mỗi một người bị ảnh hưởng như một cá nhân, nhưng họ phải nhận thức hiện tượng này là vậy. Tại sao họ lại quá bận tâm? Thiên nhiên cho mỗi ngày một ngón tay cái đặc biệt là của họ. Đó là cá thể và không lặp đi lặp lại. Thiên nhiên có thể lưu trữ bảng kê khai vi tế bằng cách cho mỗi người một ngón tay cái đặc biệt dành riêng cho người đó và ngón tay cái không bao giờ thuộc về bất cứ người nào khác nữa, không bây giờ và cả tương lai mai hậu. Hằng tỷ người có lẽ sống trên trái đất. Hằng tỷ người có lẽ sống trong tương lai trên mặt đất, nhưng đường chỉ trên ngón tay cái của tôi sẽ không lặp lại. Có lẽ bạn ngạc nhiên khi biết rằng trong trường hợp của các song sinh từ một trứng mà tôi đã đề cập qua, ngay cả đường chỉ trên ngón tay cái của họ sẽ khác nhau. Nếu thiên nhiên có thể ban tặng quá nhiều đặc tính cho mỗi con người, thậm chí với một ngón tay cái vô giá trị, một vật mà không có giá trị gì đặc biệt và có vẻ như không đem đến được mục đích đặc biệt nào… Nếu thiên nhiên thậm chí có thể ban tặng ngón tay cái sự đặc biệt, thì tại sao nó không thể cho mỗi con người một sự sống đặc biệt và một tâm thức đặc biệt? Có vẻ như không có lý do gì tại sao không, nhưng khoa học vận hành trên sự chuyển động chậm… và điều này tốt! Đối với khoa học, sự chuyển động chậm là tốt. Ngoại trừ, dữ kiện này được hoàn toàn, thì không được tốt lắm ngay cả tiến tới dù chỉ một phân, nhưng các nhà tiên tri có thể làm một bước nhảy. Hiện tượng đó sẽ xảy ra hàng nghìn, hoặc thậm chí cả hàng nghìn năm sau. Họ có thể tuyên bố ngay bây giờ.
Khoa học tiến tới trước từng phân một. Nó chỉ thấy dữ kiện. Dữ kiện, điều đó có thể dựa trên kinh nghiệm. Mộng không mang lợi ích gì cho khoa học, nhưng các nhà tiên tri có thể khám phá thậm chí trong mộng. Đối với họ, thậm chí, tương lai chỉ là thực tại mở rộng. Khoa Chiêm tinh học căn bản là sự khảo sát của tương lai. Khoa học căn bản là sự khảo sát của quá khứ vị lai. Khoa học là sự khảo sát của ngày nay là gì và nguyên nhân của nó là gì. Khoa chiêm tinh học là sự khảo sát của ngày mai sẽ là gì và hậu qủa của nó là gì. Giữa hai là một khoảng cách lớn lao, nhưng mỗi một ngày, khoa học kinh nghiệm thêm những điều mới, và mọi lý thuyết mà nó trở nên dính mắc có thể không bao giờ được chứng minh hoàn toàn là đúng. Chúng chỉ có vẻ đúng mà thôi. Như tôi đã đề cập qua, khoa học chỉ mới chấp nhận rằng mỗi con người sinh ra với mỗi cá thể đặc biệt. Trong một thời gian dài, nó đã do dự chấp nhận tính chất hợp lệ của ý tưởng này, nhưng khoa chiêm tinh học luôn phát biểu điều này. Chỉ nỗ lực thấu hiểu. Thí dụ, một hạt giống, một hạt giống của trái soài, khi chúng ta gieo hạt giống soài thì chắc chắn là nó dung chứa trong nó một chương trình được sắp đặt sẵn. Chắc chắn là phải có bảng thiết kế. Nếu không như vậy thì hạt giống cũng bất lực. Nó không đón nhận cố vấn từ các chuyên gia hay là nghiên cứu tại các viện đại học. Làm sao có thể một cây soài lại phát triển từ một hạt giống? Tuy vậy, nó sản xuất một chiếc lá soài, nuôi dưỡng trái soài. Trong hạt giống như sỏi đá, chắc chắn là có dung chứa đầy đủ chương trình. Nếu không, thiếu một chương trình như vậy thì hạt giống có thể làm được gì? Mỗi sự chắc chắn hiện diện trong nó. Bất kỳ một cây cao nào, dù muốn dù không, ẩn tàng trong một hạt giống, không hữu hình đối với chúng ta. Chúng ta có thể đập vỡ và mổ xẻ, và tuy nó không hữu hình, nhưng chắc chắn là như vậy, nếu không thì một cây non sẽ không mọc ra từ hạt soài.
Có vẻ như nó không bao giờ bị sai lầm. Chỉ có cây soài mọc lên. Tất cả đều lặp lại thật chính xác. Trong hạt giống nhỏ bé đó chứa đựng tất cả mọi thông tin quan hệ việc mà hạt giống phải làm. Nó phải đâm chồi nẩy mộng như thế nào, loại lá nào, bao nhiêu cành nó mọc ra, cây lớn cỡ bao nhiêu, phát triển bao nhiêu lâu, cao cỡ bao nhiêu. Tất cả vấn đề này được dung chứa trong hạt giống. Có bao nhiêu trái, có chín hay là không. Tất cả thông tin này đều ẩn tàng trong hạt giống. nếu tất cả thông tin này được che dấu trong hạt soài, thì khi bạn sinh ra từ tử cung của mẹ sẽ không có gì tiềm tàng trong hạt giống của bạn? Hiện tại, khoa học gia đồng ý rằng ngay cả ở trạng thái này, mầu mắt bạn nhất định vẫn ẩn tàng. Mầu tóc của bạn chắc chắn vẫn được che dấu, và chiều cao của thân thể bạn nhất định vẫn bị che dấu. Khả năng khoẻ mạnh và bệnh tật, thậm chí chỉ số thông minh cũng tiềm tàng bởi thiếu nó thì làm sao bạn phát triển, và bằng cách nào? Bạn phải có một chương trình đã được cài đặt trước rồi. Xương cốt gắn liền nhau thành chân và tay như thế nào? Một cái xương sẽ bắt đầu thấy. Một cái xương khác bắt đầu nghe. Làm sao tất cả có thể được như vậy? Các khoa học gia cho rằng hiện tượng này chỉ là sự ngẫu nhiên, nhưng từ ngẫu nhiên có vẻ thiếu khoa học. Ngẫu nhiên có nghĩa là sự may rủi. Qua sự may rủi mà một chân có lẽ bắt đầu thấy và một tay bắt đầu nghe, nhưng hiện tượng đó không có vẻ là ngẫu nhiên lắm. Tất cả đều theo trật tự, sắp đặt trước.
Khoa chiêm tinh học còn nói nhiều vấn đề khoa học hơn. Nó cho rằng mọi sự sẵn có trong hạt giống. Khoa chiêm tinh học bảo rằng nếu chúng ta nghiên cứu hạt giống, nếu chúng ta khám phá ngôn ngữ của hạt giống, nếu chúng ta có thể giải mã ngôn ngữ này… Nếu chúng ta có thể yêu cầu hạt giống, “Ý định của ngươi là gì?”, thì bạn sẽ đủ khả năng để tạo ra một bảng thiết kế đầy đủ cho con người. Khoa học gia cũng đã bắt đầu vẽ bảng thiết kế cho cây cỏ. Cho đến bây giờ, chúng ta cho mau khoa chiêm tinh học là mê tín dị đoan, một vấn đề của đức tin mù quáng, nhưng nếu khoa học có thể tạo ra được bảng thiết kế như vậy, thì trong thực tế, nó sẽ trở thành khoa chiêm tinh học… và khoa học chắc chắn bắt đầu phác họa bảng thiết kế đó. Khoa chiêm tinh học tuyên bố rằng nếu qua ân huệ thiêng liêng chúng ta nhận biết Toàn thể, thì tương lai như vậy sẽ không hề tồn tại, nhưng bởi chúng ta không nhận biết Toàn thể, chỉ một mảnh nhỏ… cái mà chúng ta không biết trở thành “Tương lai”. Chúng ta bắt buộc phải nói, “Có lẽ nó như vậy”, bởi có quá nhiều điều bất khả tri đối với chúng ta. Nếu Toàn thể được biết thì chúng ta có thể bảo, “Nó sẽ như vậy.” và nó sẽ chính xác là như vậy.
Nếu tất cả tiềm ẩn trong hạt giống con người, thì chỉ là vấn đề nghiên cứu hạt giống. Điều mà tôi nói ngày hôm nay chắc chắn nằm trong vài sắc tướng đã hiện diện trong hạt giống như một tiềm năng. Nếu không, làm sao tôi có thể đề cập về tất cả mọi hiện tượng này? Nếu có một ngày có thể quan sát được chủng tử con người, thì sau khi quan sát chủng tử của tôi, một bảng thiết kế có thể được phác họa nên biểu hiện những gì mà tôi chia sẻ trong cuộc đời này, cái mà tôi sẽ trở thành, cái mà tôi sẽ không trở thành, cái mà tôi sẽ không tạo ra chính tôi, cái mà tôi không tạo ra chính tôi, cái sẽ diễn tiến. Tất cả điều đó có thể được tính trước. Sẽ không còn là một điều đáng ngạc nhiên khi ngày mai, không phải hôm nay , chúng ta có thể khả năng nhìn sâu vào chủng tử con người. Bước đầu tiên đã được sắp đặt trong chiều hướng đó rồi. Lá số tử vi chỉ thăm dò vào tất cả mọi vấn đề đó. Hàng nghìn năm chúng ta đã cố gắng, khi một hài nhi mới sinh, tìm hiểu chuyện gì xảy ra cho nó. Nếu chúng ta có thể ước định, thì có lẽ chúng ta có thể sắp đặt trước, có lẽ chúng ta sẽ tăng thêm nhiều cơ hội cho đứa trẻ này. Thì bất kỳ hiện tượng gì xảy ra sẽ xảy ra, chúng ta có thể chấp nhận nó.
Mulla Narasruddin tuyên bố vào cuối đời của anh rằng anh luôn đau khổ, nhưng vào một ngày bỗng nhiên anh hạnh phúc. Mọi người ở ngôi làng đó thắc mắc là một con người luôn thống khổ sầu muộn, luôn nhìn thấy mặt đen tối của cuộc đời, đột nhiên trở nên vui tươi phấn khởi. Anh là người luôn bi quan, luôn thường tầm cầu gai góc cuộc đời. Có một lần có cây trồng tốt quả trong vườn của anh. Có nhiều trái táo trĩu nặng trên cây. Một người hàng xóm hỏi Mulla rằng chắc anh không thể nào phàn nàn nữa. Ông bảo, “Vào thời điểm này, cây trồng như vậy sẽ đem lại tiền tài của cải vật chất, anh nghĩ sao, Nasruddin?” Nasruddin với nỗi buồn mênh mang bảo, “Mọi sự thì cũng như vậy, nhưng tôi sẽ lấy trái táo hư nào để nuôi thú vật đây?” Người này vẫn phiền não, “Tôi sẽ lấy táo thối rữa ở đâu để nuôi thú vật đây?” Tất cả các trái táo đều tốt, không một trái nào bị hư. Đây là vấn đề khó khăn của anh. Và con người này, đột nhiên bỗng một ngày hớn hở vui vẻ. Vì vậy mà tất cả mọi dân làng đều kinh ngạc hỏi, “Có phải anh đang hạnh phúc hay không, Nasruddin? Có vương quốc nào thuộc về anh phải không?” Nasruddin đáp, “Tôi đã học cách đương đầu với những việc không thể nào tránh được. Sau nhiều năm vật lộn, tôi nhận thức một điều. Bây giờ, tôi tuyên bố rằng mọi sự diễn tiến ra sao thì tôi chấp nhận như vậy. Hiện tại, tôi đã đương đầu với điều không thể nào tránh được. Bây giờ thì không còn lý do gì nữa để mà phiền não. Bây giờ tôi đã hạnh phúc.”
Khoa chiêm tinh học đã khảo sát nhiều vấn đề. Đối với bất kỳ hiện tượng gì không thể tránh được, nó giúp đỡ. Bất kỳ vấn đề gì xảy ra thì hãy để tự nhiên như vậy, không cần phải vật lộn một cách điên cuồng. Bất cứ điều gì không là, không còn đòi hỏi, không cần phải vươn tay ra. Khoa chiêm tinh học là phương tiện biến con người tín ngưỡng… mang họ đến đạt đến thể tánh Chân Như của họ, với sự chấp nhận tối hậu. Nó sở hữu quá nhiều bình diện, quá nhiều khía cạnh. chúng ta sẽ từ từ bàn thảo mỗi bình diện. Ngày hôm nay, chỉ nhiêu đó thôi, rằng vũ trụ là thân thể sống động, một đơn vị hữu cơ. Không có gì tách biệt và tất cả đều liên kết. Bất kỳ những gì xa xôi nối kết với những gì gần đây. Không có gì riêng rẽ tách biệt. Vì thế, không một ai bị hiểu lầm về hiện tượng này. Không một ai là một hải đảo cô đơn và xa lạ. Mỗi một chúng sinh đều là đầu mối của Toàn thể. Mỗi một chúng sinh đều ảnh hưởng chúng sinh khác trong mỗi sát na và ảnh hưởng bởi các chúng sinh khác. Ngay cả khi bạn đi ngang qua một hòn đá ban đầu, nó vẫn ném chấn động lực về hướng bạn. Những cánh hoa cũng cho từ trường của chúng, và bạn không chỉ đi ngang qua, bạn cũng ban tặng từ trường của bạn. Tôi đã chia sẻ là chúng ta ảnh hưởng bởi mặt trăng và các chòm sao. Tôi cũng muốn cho rằng mặt trăng và các chòm sao cũng bị chúng ta ảnh hưởng, bởi tất cả tác động đều đến từ hai chiều hướng. Mỗi khi có bậc Giải Thoát như Đức Phật ra đời trên trái đất này, mặt trăng có lẽ không ý thức rằng đó là do ngài mà bão tố đã không dậy sóng trên bề mặt của nó… rằng bởi Đức Phật, bão tố đều lắng xuống. Mặt trăng bị ảnh hưởng và mặt trời cũng vận hành. Khi những đốm đen nổi lên trên mặt trời và bão tố nổi dậy, bệnh tật sẽ lan tràn cùng khắp mặt đất.
Khi một bậc Giải Thoát như Đức Phật ra đời trên trái đất và dòng chảy an lạc luân lưu. Cột tâm thức phát triển mạnh mẽ, và vẻ đẹp sâu sắc của Thiền hiện hành trên mặt đất, thì kể cả bão tố dậy sóng trên mặt trời, bão tố bình yên, hỷ lạc và tâm thức, tất cả đồng liên kết với nhau. Một ngọn cỏ có sự tác động trên mặt trời, và mặt trời cũng tác động trên ngọn cỏ. Ngọn cỏ không nhỏ bé đến mức mặt trời có thể bảo, “Ta không bận tâm đến ngươi.” hay là mặt trời quá khổng lồ nên nó bảo, “Ngọn cỏ này có thể làm gì cho ta?” Sự sống đều liên kết lẫn nhau. Không có gì lớn lao hoặc không có gì nhỏ bé. Tất cả đều là một đơn vị hữu cơ. Sự sống là Toàn thể. Nếu bạn có thể cảm nhận được đặc tính Toàn thể này, chỉ có vậy thì bạn sẽ hiểu khoa chiêm tinh học, nếu không bạn sẽ không hiểu. Khoa chiêm tinh học là một khía cạnh của tâm linh, một bình diện tâm linh. Nó là khoa học của Toàn thể, đồng nhất, Bất nhị…

[1] Sumerian: ngôn ngữ Sumer và dân chúng của đất nước Sumer. Quốc gia Sumer nằm ở miền đông nam của vùng Lưỡng hà (Mesopotamia), là một vùng địa lý bao gồm các nước Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và tây nam Iran hiện đại.

Tác Giả: Osho Rajneesh
Việt Dịch: Minh Nguyệt

Nguồn: Trích dịch từ tác phẩm "Bí Ẩn Được Che Dấu"

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét