Sau nhiều năm nghiên cứu, khoa học đã có những khám phá tương đối rõ ràng hơn về nguyên nhân cũng như điều trị và cách thức phòng ngừa bệnh. Nhờ đó một số lớn ung thư có thể được chữa khỏi nếu phát hiện sớm.
Ung thư không phải là một bệnh mà gồm vài chục loại khác nhau. Chúng có thể xuất phát từ bất cứ nơi nào trong cơ thể với các hung tính riêng.
Ai cũng có thể bị ung thư. Nhưng mắc bệnh hay không tùy thuộc vào một số yếu tố như nơi ở, nghề nghiệp, quá khứ sức khỏe của mỗi cá nhân và gia đình, gen di truyền, nếp sống hàng ngày. Theo thống kê, ung thư xẩy ra nhiều hơn ở lớp tuổi trên 60; người kém lợi tức nhiều hơn giới trung lưu; tín đồ vài tôn giáo như Mormon và Seventh-Day Adventists ít bị hơn. Có lẽ vì họ chừng mực trong đời sống và dinh dưỡng, không rượu, thuốc lá.
Ung thư đã được biết tới từ thuở xa xưa.
Danh từ Cancer, được Hippocrates dùng đầu tiên, bắt nguồn từ chữ karcinos có nghĩa là con Cua, ngụ ý diễn tả những u bướu có nhánh tỏa ra chung quanh.
Y giới cổ Hi Lạp cho ung thư là do mất thăng bằng bốn chất lỏng trong cơ thể, nhất là khi mật từ gan tiết ra quá nhiều.
Gallen thì lại cho ung thư là do có quá nhiều máu sau khi cơ thể bị viêm nóng.
Ðến thế kỷ 15, có khoa học gia lại coi hệ bạch huyết có liên hệ tới ung thư. Khi tế bào được khám phá qua kính hiển vi và được coi như đơn vị căn bản của cơ thể thì hiểu biết về ung thư rõ ràng hơn.
Ngày nay y khoa học đã chứng minh ung thư là do một số tế bào đột nhiên tăng sinh sản một cách bất bình thường và không kiểm soát được.
Diễn tiến ung thư
Nhắc lại là cơ thể được cấu tạo bởi cả nghìn nghìn tỷ đơn vị gọi là tế bào. Tế bào giúp ta thực hiện các chức năng chính của cơ thể như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, cử động, suy nghĩ.
Mô bào tăng trưởng và sinh sản tùy theo nhu cầu của cơ thể và trong một trật tự đã được quy định. Một tế bào thành hai, hai thành bốn và liên tục tiếp diễn.
Trong những năm đầu của cuộc đời, tế bào sinh sôi nẩy nở rất nhanh cho tới khi ta trưởng thành. Sau đó tế bào của hầu hết các bộ phận chỉ sinh ra để thay thế tế bào già yếu hoặc bị tiêu hủy, thương tích.
Khi tế bào tăng sinh một cách vô trật tự, không đáp ứng nhu cầu, không kiểm soát được và mất khả năng tự hủy thì chúng sẽ tạo ra một nhóm gọi là u bướu. U này có thể lành hoặc dữ.
Lành thì thu gọn, ít gây hiểm nghèo cho sức khỏe, không lan tới các nơi khác và có thể mổ cắt bỏ.
Trái lại u ung thư thì nguy hiểm hơn vì chúng lan sang các bộ phận xa gần. Ðó là sự di căn. Khi di căn như vậy, nơi mà ung thư khởi sự vẫn được coi là ung thư chính. Thí dụ tế bào ung thư nhiếp tuyến chạy vào xương thì vẫn giữ các đặc tính của ung thư nhiếp tuyến.
Có nhiều giải thích về sự thay đổi của tế bào ung thư.
Theo bác sĩ L. Hebert Maurer, đại học Y khoa Darmouth sự hình thành ung thư diễn tiến qua hai giai đoạn:
Tác nhân gây ung thư xâm nhập một tế bào và gây rối loạn cho DNA. DNA là chất có trong mọi tế bào và điều khiển mọi sinh hoạt của tế bào. Ở tế bào bình thường, khi bị tổn thương thì DNA có thể sửa chữa được trong khi đó DNA tế bào ung khi bị hư hao thì bất khả tu sửa. Gen DNA này biến đổi và tế bào có khả năng trở thành ác tính.
Tiếp theo là một vài hóa chất trong tế bào lại hỗ trợ sự tăng sinh của tế bào nổi loạn và tạo ra u bướu.
Thời gian từ khi tiếp xúc với tác nhân nguy hại tới khi khám phá ra bệnh kéo dài có khi cả mươi mười lăm năm. Ðấy là thời gian mà nếu khám phá ra sớm thì có thể chặn sự thành hình hoặc giới hạn sự lan rộng của tế bào ung thư.
Siêu vi khuẩn và một số hóa chất đã được coi như những rủi ro gây ra ung thư.
Theo bác sĩ Isadore Rosenfeld, giáo sư Trung Tâm Y Khoa Cornel, 35% ung thư có liên hệ tới thực phẩm ăn uống, 30% gây ra do hút thuốc lá, 4% do nghề nghiệp, 3% do tiêu thụ nhiều rượu, 2% do ô nhiễm. Ấy là chưa kể phóng xạ, kích thích tố và các rủi ro chưa được xác định.
Ung thư có thể gây bệnh ở mọi cơ quan, nhưng nhũ hoa, ruột già, nhiếp tuyến, bao tử, tụy tạng, bàng quang, phổi, da, tử cung là những nơi thường thấy.
Những dấu hiệu của nguy cơ bị ung thư.
Tùy theo loại, ung thư có những dấu hiệu cảnh báo như sau:
a- Thay đổi thói quen đại tiểu tiện;
b- Một vết thương lâu lành;
c- Xuất huyết hoặc tiết dịch bất thường ở một cơ quan;
d- U cục ở nhũ hoa hoặc các phần mềm;
e- Không tiêu và khó khăn khi nuốt thức ăn;
g- Có những mụt cóc hoặc nốt ruồi mole trên da
Ung thư không phải là một bệnh mà gồm vài chục loại khác nhau. Chúng có thể xuất phát từ bất cứ nơi nào trong cơ thể với các hung tính riêng.
Ai cũng có thể bị ung thư. Nhưng mắc bệnh hay không tùy thuộc vào một số yếu tố như nơi ở, nghề nghiệp, quá khứ sức khỏe của mỗi cá nhân và gia đình, gen di truyền, nếp sống hàng ngày. Theo thống kê, ung thư xẩy ra nhiều hơn ở lớp tuổi trên 60; người kém lợi tức nhiều hơn giới trung lưu; tín đồ vài tôn giáo như Mormon và Seventh-Day Adventists ít bị hơn. Có lẽ vì họ chừng mực trong đời sống và dinh dưỡng, không rượu, thuốc lá.
Ung thư đã được biết tới từ thuở xa xưa.
Danh từ Cancer, được Hippocrates dùng đầu tiên, bắt nguồn từ chữ karcinos có nghĩa là con Cua, ngụ ý diễn tả những u bướu có nhánh tỏa ra chung quanh.
Y giới cổ Hi Lạp cho ung thư là do mất thăng bằng bốn chất lỏng trong cơ thể, nhất là khi mật từ gan tiết ra quá nhiều.
Gallen thì lại cho ung thư là do có quá nhiều máu sau khi cơ thể bị viêm nóng.
Ðến thế kỷ 15, có khoa học gia lại coi hệ bạch huyết có liên hệ tới ung thư. Khi tế bào được khám phá qua kính hiển vi và được coi như đơn vị căn bản của cơ thể thì hiểu biết về ung thư rõ ràng hơn.
Ngày nay y khoa học đã chứng minh ung thư là do một số tế bào đột nhiên tăng sinh sản một cách bất bình thường và không kiểm soát được.
Diễn tiến ung thư
Nhắc lại là cơ thể được cấu tạo bởi cả nghìn nghìn tỷ đơn vị gọi là tế bào. Tế bào giúp ta thực hiện các chức năng chính của cơ thể như tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa, cử động, suy nghĩ.
Mô bào tăng trưởng và sinh sản tùy theo nhu cầu của cơ thể và trong một trật tự đã được quy định. Một tế bào thành hai, hai thành bốn và liên tục tiếp diễn.
Trong những năm đầu của cuộc đời, tế bào sinh sôi nẩy nở rất nhanh cho tới khi ta trưởng thành. Sau đó tế bào của hầu hết các bộ phận chỉ sinh ra để thay thế tế bào già yếu hoặc bị tiêu hủy, thương tích.
Khi tế bào tăng sinh một cách vô trật tự, không đáp ứng nhu cầu, không kiểm soát được và mất khả năng tự hủy thì chúng sẽ tạo ra một nhóm gọi là u bướu. U này có thể lành hoặc dữ.
Lành thì thu gọn, ít gây hiểm nghèo cho sức khỏe, không lan tới các nơi khác và có thể mổ cắt bỏ.
Trái lại u ung thư thì nguy hiểm hơn vì chúng lan sang các bộ phận xa gần. Ðó là sự di căn. Khi di căn như vậy, nơi mà ung thư khởi sự vẫn được coi là ung thư chính. Thí dụ tế bào ung thư nhiếp tuyến chạy vào xương thì vẫn giữ các đặc tính của ung thư nhiếp tuyến.
Có nhiều giải thích về sự thay đổi của tế bào ung thư.
Theo bác sĩ L. Hebert Maurer, đại học Y khoa Darmouth sự hình thành ung thư diễn tiến qua hai giai đoạn:
Tác nhân gây ung thư xâm nhập một tế bào và gây rối loạn cho DNA. DNA là chất có trong mọi tế bào và điều khiển mọi sinh hoạt của tế bào. Ở tế bào bình thường, khi bị tổn thương thì DNA có thể sửa chữa được trong khi đó DNA tế bào ung khi bị hư hao thì bất khả tu sửa. Gen DNA này biến đổi và tế bào có khả năng trở thành ác tính.
Tiếp theo là một vài hóa chất trong tế bào lại hỗ trợ sự tăng sinh của tế bào nổi loạn và tạo ra u bướu.
Thời gian từ khi tiếp xúc với tác nhân nguy hại tới khi khám phá ra bệnh kéo dài có khi cả mươi mười lăm năm. Ðấy là thời gian mà nếu khám phá ra sớm thì có thể chặn sự thành hình hoặc giới hạn sự lan rộng của tế bào ung thư.
Siêu vi khuẩn và một số hóa chất đã được coi như những rủi ro gây ra ung thư.
Theo bác sĩ Isadore Rosenfeld, giáo sư Trung Tâm Y Khoa Cornel, 35% ung thư có liên hệ tới thực phẩm ăn uống, 30% gây ra do hút thuốc lá, 4% do nghề nghiệp, 3% do tiêu thụ nhiều rượu, 2% do ô nhiễm. Ấy là chưa kể phóng xạ, kích thích tố và các rủi ro chưa được xác định.
Ung thư có thể gây bệnh ở mọi cơ quan, nhưng nhũ hoa, ruột già, nhiếp tuyến, bao tử, tụy tạng, bàng quang, phổi, da, tử cung là những nơi thường thấy.
Những dấu hiệu của nguy cơ bị ung thư.
Tùy theo loại, ung thư có những dấu hiệu cảnh báo như sau:
a- Thay đổi thói quen đại tiểu tiện;
b- Một vết thương lâu lành;
c- Xuất huyết hoặc tiết dịch bất thường ở một cơ quan;
d- U cục ở nhũ hoa hoặc các phần mềm;
e- Không tiêu và khó khăn khi nuốt thức ăn;
g- Có những mụt cóc hoặc nốt ruồi mole trên da
h- Ho khan hoặc khản tiếng.
Nếu có một trong những dấu hiệu trên, xin đi khám bác sĩ ngay để được khám nghiệm thêm. Nếu chẳng may bị bệnh thì bệnh sẽ mau khỏi nếu được điều trị sớm.
Khám nghiệm phát hiện ung thư
Cho tới nay, 80% các trường hợp ung thư đều được xác định ở giai đoạn 2 hoặc 3 nên việc điều trị bị giới hạn. Do đó Viện Ung Thư Hoa Kỳ đưa ra các hướng dẫn sau đây để sàng lọc screening một số ung thư trước khi có dấu hiệu bệnh.
Phụ nữ
a- Tuổi từ 18-39
Ung thư nhũ hoa: Khám nhũ hoa mỗi ba năm do bác sĩ; tự khám mỗi tháng; chụp X-quang nhũ hoa trong tuổi 35-39.
Ung thư cổ tử cung: khám tử cung và làm pap test mỗi năm.
b- Tuổi 40 trở lên
Ung thư nhũ hoa và cổ tử cung: như trên.
Ðàn ông
a- Tuổi 15 trở lên
Thiếu niên cần tự khám ngọc hành mỗi tháng vì tuổi 15- 34 là nhiều nguy cơ ung thư..
b- Ðàn ông trên 40 tuổi
Hàng năm khám hậu môn để coi tình trạng to nhỏ nhiếp tuyến rồi thử prostate specific antigen.
Nam Nữ
a- Tuổi 40-50
Khám hậu môn mỗi năm để phát hiện ung thư trực tràng.
b- Tuổi trên 50
Hàng năm khám hậu môn và thử phân coi có máu.
Mỗi năm năm làm nội soi trực tràng.
Nếu có một trong những dấu hiệu trên, xin đi khám bác sĩ ngay để được khám nghiệm thêm. Nếu chẳng may bị bệnh thì bệnh sẽ mau khỏi nếu được điều trị sớm.
Khám nghiệm phát hiện ung thư
Cho tới nay, 80% các trường hợp ung thư đều được xác định ở giai đoạn 2 hoặc 3 nên việc điều trị bị giới hạn. Do đó Viện Ung Thư Hoa Kỳ đưa ra các hướng dẫn sau đây để sàng lọc screening một số ung thư trước khi có dấu hiệu bệnh.
Phụ nữ
a- Tuổi từ 18-39
Ung thư nhũ hoa: Khám nhũ hoa mỗi ba năm do bác sĩ; tự khám mỗi tháng; chụp X-quang nhũ hoa trong tuổi 35-39.
Ung thư cổ tử cung: khám tử cung và làm pap test mỗi năm.
b- Tuổi 40 trở lên
Ung thư nhũ hoa và cổ tử cung: như trên.
Ðàn ông
a- Tuổi 15 trở lên
Thiếu niên cần tự khám ngọc hành mỗi tháng vì tuổi 15- 34 là nhiều nguy cơ ung thư..
b- Ðàn ông trên 40 tuổi
Hàng năm khám hậu môn để coi tình trạng to nhỏ nhiếp tuyến rồi thử prostate specific antigen.
Nam Nữ
a- Tuổi 40-50
Khám hậu môn mỗi năm để phát hiện ung thư trực tràng.
b- Tuổi trên 50
Hàng năm khám hậu môn và thử phân coi có máu.
Mỗi năm năm làm nội soi trực tràng.
Giảm thiểu nguy cơ bị ung thư
a- Hút thuốc là là nguyên nhân chính của ung thư phổi; vậy thì không nên hút thuốc. Thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong cho 30% trường hợp ung thư phổi.
b- Tránh tiếp cận với ánh nắng gay gắt để giảm thiểu nguy cơ bị ung thư da;
c- Giảm cân; ăn nhiều rau trái cây; giảm muối dể giảm ung thư ruột.
d- Nếu uống rượu thì uống vừa phải;
e- Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, “ăn uống đúng đắn, tăng hoạt động cơ thể và đừng để mập phì là những phương thức tốt để giảm rủi ro ung thư”.
Ðiều trị ung thư
Hiện nay có ít nhất bốn phương pháp để điều trị ung thư: giải phẫu, xạ trị, hóa trị và miễn dịch trị liệu immunotherapy. Mục đích các phương pháp này là tiêu diệt tế bào ung thư mà không gây tổn thương cho tế bào bình thường. Phương pháp có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp với nhau. Tiến bộ về kỹ thuật đã tăng hiệu quả và an toàn của các phương pháp và nhiều bệnh nhân đã được cứu sống.
1- Giải phẫu.
Giải phẫu là phương pháp điều trị cổ điển nhất nhưng cũng rất công hiệu đặc biệt là với ung thư thu gọn ở một phần nào đó của cơ thể. Khi giải phãu, tế bào ung thư được lấy đi càng nhiều càng tốt. Ðôi khi tế bào lành cũng được cắt bỏ để chắc chắn là tế bào ung thư lẫn vào đã được loại hết.
Hiệu quả tùy thuộc vào một số yếu tố:
a- U thu gọn ở một chỗ và chưa di căn;
b- Tế bào ung thư tăng sinh chậm;
c- Vị trí của u bướu;
d- Khả năng chuyên môn của phẫu thuật gia;
e- Công hiệu của các dịch phụ hỗ trợ như thuốc mê, kiểm soát ngừa nhiễm trùng, tiếp máu, dụng cụ giải phẫu và chăm sóc sau khi mổ,
2- Xạ trị
Ðây là phương tiện thường dùng. Quá nửa các loại ung thư được chữa bằng xạ trị đặc biệt là ung thư đầu, cổ, phổi, bọng đái. Thường thường radiation được dùng cho ung thư không chữa được bằng giải phẫu hoặc khi đã giải phẫu mà có e ngại ung thư tái phát
Sự thành công tùy thuộc vị trí của ung thư, ung thư có mẫn cảm sensitive với phóng xạ; u thu gọn và không di căn.
Mục đích xạ trị là để tiêu diệt tế bào nổi loạn và làm teo u khối bằng các làn sóng hoặc phân tử như proton, electron, x-ray, gamma -ray
Có hai cách xạ trị:
a) Ðưa hẳn vào u ung thư. Chẳng hạn sau khi mổ thì radiation chứa trong vật đựng được đặt ngay ở nơi mổ;
b) Dùng máy để hướng radiation vào u bướu và tế bào ở xung quanh;
Xạ tác tiêu diệt hữu hiệu trên tế bào ung thư tăng trưởng nhanh hơn là tế bào thường tăng sinh chậm.
Xạ được đưa vào cơ thể với phân lượng rất nhỏ trong vòng ba hoặc bốn tuần lễ để có tác dụng mạnh lên tế bào ung thư và giới hạn ảnh hưởng lên tế bào lành. Nếu chẳng may bị tổn thương thì tế bào bình thường cũng mau lành.
Công hiệu của xạ trị liệu tùy thuộc phương pháp áp dụng. Tác dụng phụ thông thường là mệt mỏi, thay đổi trên da, ăn mất ngon.
Có điều là chi phí điều trị khá tốn kém, tùy theo điều trị nhiều hay ít.
3- Hóa trị
Ðược dùng khi ung thư đã lan ra ngoài vị trí ban đầu hoặc khi có di căn ở nhiều địa điểm. Phương pháp sẽ hữu hiệu hơn nếu ung thư mẫn cảm với hóa chất; bướu còn nhỏ; khi bệnh nhân khỏe mạnh, có sức chịu đựng với tác dụng ngoại ý của thuốc.
Có nhiều loại hóa chất khác nhau. Mỗi hóa chất có tác dụng riêng biệt với từng ung thư bằng cách làm ngưng sự phân chia và sinh sản của tế bào phản loạn. Khi không có sự phân bào thì tế bào tan vỡ, u bướu teo lại.
Hóa trị đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân và cũng giúp nhiều người khác giảm bệnh.
Không như xạ trị hoặc giải phẫu đòi hỏi ung thư thu gọn, hóa trị có thể phân tán khắp cơ thể để tiêu diệt tế bào ung thư ở các nơi mà bác sĩ không tìm ra.
Thuốc có thể uống nhưng đa số là truyền qua tĩnh mạch.
Tác dụng phụ thường thấy là ói mửa, rụng tóc, mệt mỏi, dễ nhiễm trùng, thiếu hồng huyết cầu.
4- Miễn dịch trị liệu
Nói đến điều trị ung thư ta thường nghĩ ngay tới tiêu diệt tế bào bệnh hoạn bằng hóa chất, phóng xạ hoặc dao kéo giải phẫu. Các phương pháp này rất công hiệu nhưng cũng gây tổn thương cho tế bào lành.
Miễn dịch trị liệu không ảnh hưởng tới tế bào lành nhưng rất hữu hiệu trong việc tiêu diệt tế bào nổi loạn. Mục đích của trị liệu này là tăng cường khả năng chống trả với bệnh tật của cơ thể đồng thời ngăn ngừa sự phát triển tế bào ung thư.
Phương pháp này hiện nay đang được nghiên cứu kỹ càng và có nhiều triển vọng sáng sủa cho người bệnh.
Trị liệu mới cho Bốn Ung Thư Hiểm nghèo
Với các bệnh ung thư nguy hiểm, y khoa học đã cống hiến nhiều phương pháp trị liệu khá công hiệu. Nhưng những phương tiện này cũng tạo ra một số tác dụng xấu mà người bệnh phải cam nhận.
Sau một giải phẫu, một trị liệu bằng hóa chất, phóng xạ, nhiều bệnh nhân rơi vào tình trạng mất khẩu vị ăn uống, ói mửa, mệt mỏi, suy nhược, tóc rụng, da khô. Đó là do ảnh hưởng của các trị liệu được tung vào người bệnh với hy vọng là sẽ tiêu diệt được nhiều tế bào ung thư hơn là tế bào lành.
Gần đây, đã có nhiều phát minh mới để trị ung thư một cách chính xác hơn, tập trung vào những tế bào nổi loạn. Các phương pháp này dựa trên sự hiểu biết cặn kẽ về đặc tính của tế bào ung thư, yếu điểm của chúng và hướng sự trị liệu vào chúng mà tiêu diệt, thay vì làm hại oan tới tế bào tốt.
Hiện nay đã có một số phương tiện trị liệu mới nhắm vào bốn loại ung thư hiểm nghèo là ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tuyến nhiếp và ung thư ruột già.
1- Ung thư Phổi.
Đây là loại ung thư gây ra tử vong rất cao, bằng tổng số tử vong của các ung thư ruột già, nhiếp tuyên và vú.
Tế bào ung thư phổi rất đa dạng gây ra do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên không một phương thức trị liệu đơn độc nào có thể hoàn toàn khống chế được chúng. Các khoa học gia đang thử nghiệm một số trị liệu mới như sau:
a- Phóng xạ trực tiếp (Directed radiation)
- Dưới sự hướng dẫn của X quang cắt lớp ( CAT scan) và máy vi tính, tia phóng xạ sẽ được đưa trực tiếp tới vị trí của các tế bào ung thư mà tiêu diệt. Phương pháp này, gọi là IMRT (intesity modulated radiation therapy), có thể đưa một số phóng xạ nhiều gấp bốn hoặc tám lần tới các tế bào ung thư mà không gây hại gì cho tế bào bình thường ở chung quanh.
IMRT hiện đang được sử dụng ở nhiều trung tâm trị liệu, và cũng được dùng để trị ung thư nhiếp tuyến, ung thư đầu và cổ, ung thư dạ dầy, bao tử.
Tác dụng không tốt gồm có tiêu chẩy, tiểu tiện gắt, kích thích khó chịu ở ruột già và bọng đái.
b- Dược phẩm trị ung thư để hít vào phổi (Inhaled cancer drugs).
IMRT hiện đang được sử dụng ở nhiều trung tâm trị liệu, và cũng được dùng để trị ung thư nhiếp tuyến, ung thư đầu và cổ, ung thư dạ dầy, bao tử.
Tác dụng không tốt gồm có tiêu chẩy, tiểu tiện gắt, kích thích khó chịu ở ruột già và bọng đái.
b- Dược phẩm trị ung thư để hít vào phổi (Inhaled cancer drugs).
- Giống như thuốc hít chữa bệnh suyễn, thuốc trị ung thư này được hít trực tiếp vào phổi để truy lùng tiêu diệt tế bào ung thư. Một trở ngại là thuốc sẽ chỉ tập trung ở hai lá phổi chứ không phân tán đi khắp cơ thể.
Thuốc đang ở trong giai đoạn thử nghiệm và hy vọng sẽ sớm được áp dụng..
c- Những trái bom tinh nhanh (Smart Bombs)- Hai loại thuốc mới đang chờ đợi cơ quan Thực Phẩm & Dược Phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để trị ung thư phổi, ung thư ruột già, vú, nhiếp tuyến, tụy tạng. Đó là thuốc Iressa và Tarceva. Dược phẩm này chuyên đi tìm các tế bào ung thư và chặn sự tăng sinh của chúng, làm u bướu ung thư nhỏ đi. Thuốc tác dụng trực tiếp trên tế bào ung thư nên gây rất ít thiệt hại cho tế bào lành.
2- Ung thư Vú.-
Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng trên 200.000 trường hợp ung thư vú được phát hiện và số tử vong lên tới trên 40.000 người. Các phương thức trị liệu mới gốm có:
a- Dược phẩm làm ngưng sự tăng trưởng tế bào ung thư như Tarceva và Herceptin.
Phối hợp với hóa trị liệu, Herceptin được coi như có nhiều hy vọng tránh tử vong cho người bệnh. Thuốc này đã được công nhận, còn Tarceva thì khoảng vài năm nữa là được sản xuất.
b- Thuốc kiềm chế kích thích tố estrogen. Vì có nhiều liên can tới ung thư vú, nên kiềm chế tác dụng của estrogen là muc tiêu của vài dược phẩm mới như Arimidex và Femara. Các thuốc này hiện giờ đang được sử dụng.
c- Làm đông lạnh u ung thư . Dùng tia laser hoặc sóng vi ba với cường độ cao, đưa thẳng vào u ung thư để tiêu hủy nó. Phương pháp này có thể làm tan biến u ung thư nhỏ dưới 3/8 inc và thực hiện mau lẹ, bệnh nhân về nhà ngay ngày hôm sau.
Phương pháp đã được dùng để trị ung thư gan; trong dăm ba năm sẽ được áp dụng cho ung thư vú, phổi và có thể cho cả ung thư nhiếp tuyến.
3- Ung thư Nhiếp tuyến.
Đây là loại ung thư xẩy ra nhiều nhất ở đàn ông. Hàng năm bên Mỹ có khoảng gần 200.000 trường hợp ung thư mới phát hiện và số tử vong cũng khá cao: khoảng 30.000 mỗi năm.
Cho tới nay, hóa trị đã được áp dụng nhưng không công hiệu lắm mà phẫu thuật lại hay gây ra loạn cương dương và sự không kiềm chế tiểu tiện (incontinence), gây bất tiện cho bệnh nhân..
Các phương thức trị liệu mới đang được thử nghiệm và tương lai có vẻ sáng sủa hơn:
a- (Radiation seeds). Dưới sự hướng dẫn của màn ảnh siêu âm (ultra sound scan), một đầu kim chích chứa một lượng phóng xạ được đưa vào u ung thư và làm teo u này.
Phương pháp được giới thiệu là rất chính xác, không làm hại gì tới tế bào lành ở chung quanh. Khi dùng chung với giải phẫu, phương pháp này có khả năng trị tuyệt từ 60 tới 90% tế bào ung thư nhiếp tuyến.
b- Giải phẫu mà không gây liệt dương. Trong phương pháp này, sau khi cắt bỏ nhiếp tuyến và giây thần kinh điều khiển sự cương dương, nguờì ta lấy một đoạn giây thần kinh ở dưới cổ chân, cấy nơi bẹn để thay thế cho giây thần kinh đã bị cắt bỏ. Phương pháp đang ở trong vòng thử nghiệm ở Viện ung thư MD Anderson, Texas. Hy vọng là trong vài năm sẽ được hoàn chỉnh và được mang ra sử dụng để tránh cho người bệnh khỏi bị liệt dương vì giải phẫu cứu sống.
4- Ung Thư Ruột già.
Đây là loại ung thư đứng hàng thứ tư ở cả nam lẫn nữ giới. Mỗi năm bên Mỹ có khoảng 150.000 ca mới. Số tử vong khoảng 55.000 người.
a- Phối hợp Xạ trị và Giải phẫu. Trong phương pháp này, khi giải phẫu thì xạ liệu cũng được dùng song hành để tiêu diệt tế bào ung thư.. Xạ liệu được đưa tới trực tiếp tế bào bệnh nên không ảnh hưởng gì tới tế bào lành. Phương pháp rất tốt khi ung thư giới hạn ở ruột chứ khi đã lan ra các cơ quan lân cận thì quá trễ. Nhiều trung tâm ung thư đã áp dụng phương pháp này.
b- Bỏ đói ung thư (Starving tumors). Tế bào ung thư chỉ tăng sinh khi được nuôi dưỡng đầy đủ. Nếu ta ngăn chặn sự nuôi dưỡng này từ các mạch máu thì tế bào sẽ chết đói, ung thư ngưng phát triển. Đó là chủ đích của các dược phẩm Avastin, Endostatin, chặn sự phát triển của các mạch máu trong u ung thư.
Kết luận
Ngày nay, y khoa học đã mang lại nhiều hy vọng cứu sống cho các nan bệnh ung thư.
Bệnh nhân cũng có thể tìm tới các loại cây con mà loài người có kinh nghiệm về trị bệnh từ lâu. Ðông y ta đã từng dùng lá đu đủ, nấm linh chi, dây tóc tiên, cây rẻ quạt, bạch truật, nam sa sâm, ý dĩ vân vân và đã có trường hợp ung thư thuyên giảm. Có bệnh thì vái tứ phương mà.
Nhưng có lẽ chỉ nên tìm tới các món này khi mà các phương tiện khoa học hiện có bó tay hoặc dùng phụ thêm nếu không có chống chỉ định. Vì dù sao thì các phương tiện thực nghiệm cũng đã được chứng minh sự hữu hiệu, chẳng trăm phần trăm thì cũng dăm bẩy chục phần trăm.
Ngoài ra, tình trạng tâm trí cũng có ảnh hưởng tới việc điều trị ung thư và các nan bệnh khác. Một hiểu biết cặn kẽ về bệnh tật, một thái độ tích cực, một thư giãn tâm hồn làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể để đối phó với khó khăn.
Như giải phẫu gia Berbard S. Siegel, Ðại học Y khoa Yale nhận xét: “Thể chất đáp ứng với các tín hiệu từ trí óc, một cách ý thức hoặc vô ý thức. Các tín hiệu này có thề là “sinh” hoặc “tử”. Tôi nghĩ là con người không những chỉ có bản năng sinh tồn mà còn bản năng tự hủy. Bản năng tự hủy khiến cơ thể ngưng sự tự vệ, giảm hoạt động các chức năng, đưa ta tới tử địa khi chúng ta nghĩ là đời không còn đáng sống nữa”.
Thuốc đang ở trong giai đoạn thử nghiệm và hy vọng sẽ sớm được áp dụng..
c- Những trái bom tinh nhanh (Smart Bombs)- Hai loại thuốc mới đang chờ đợi cơ quan Thực Phẩm & Dược Phẩm Hoa Kỳ chấp thuận để trị ung thư phổi, ung thư ruột già, vú, nhiếp tuyến, tụy tạng. Đó là thuốc Iressa và Tarceva. Dược phẩm này chuyên đi tìm các tế bào ung thư và chặn sự tăng sinh của chúng, làm u bướu ung thư nhỏ đi. Thuốc tác dụng trực tiếp trên tế bào ung thư nên gây rất ít thiệt hại cho tế bào lành.
2- Ung thư Vú.-
Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng trên 200.000 trường hợp ung thư vú được phát hiện và số tử vong lên tới trên 40.000 người. Các phương thức trị liệu mới gốm có:
a- Dược phẩm làm ngưng sự tăng trưởng tế bào ung thư như Tarceva và Herceptin.
Phối hợp với hóa trị liệu, Herceptin được coi như có nhiều hy vọng tránh tử vong cho người bệnh. Thuốc này đã được công nhận, còn Tarceva thì khoảng vài năm nữa là được sản xuất.
b- Thuốc kiềm chế kích thích tố estrogen. Vì có nhiều liên can tới ung thư vú, nên kiềm chế tác dụng của estrogen là muc tiêu của vài dược phẩm mới như Arimidex và Femara. Các thuốc này hiện giờ đang được sử dụng.
c- Làm đông lạnh u ung thư . Dùng tia laser hoặc sóng vi ba với cường độ cao, đưa thẳng vào u ung thư để tiêu hủy nó. Phương pháp này có thể làm tan biến u ung thư nhỏ dưới 3/8 inc và thực hiện mau lẹ, bệnh nhân về nhà ngay ngày hôm sau.
Phương pháp đã được dùng để trị ung thư gan; trong dăm ba năm sẽ được áp dụng cho ung thư vú, phổi và có thể cho cả ung thư nhiếp tuyến.
3- Ung thư Nhiếp tuyến.
Đây là loại ung thư xẩy ra nhiều nhất ở đàn ông. Hàng năm bên Mỹ có khoảng gần 200.000 trường hợp ung thư mới phát hiện và số tử vong cũng khá cao: khoảng 30.000 mỗi năm.
Cho tới nay, hóa trị đã được áp dụng nhưng không công hiệu lắm mà phẫu thuật lại hay gây ra loạn cương dương và sự không kiềm chế tiểu tiện (incontinence), gây bất tiện cho bệnh nhân..
Các phương thức trị liệu mới đang được thử nghiệm và tương lai có vẻ sáng sủa hơn:
a- (Radiation seeds). Dưới sự hướng dẫn của màn ảnh siêu âm (ultra sound scan), một đầu kim chích chứa một lượng phóng xạ được đưa vào u ung thư và làm teo u này.
Phương pháp được giới thiệu là rất chính xác, không làm hại gì tới tế bào lành ở chung quanh. Khi dùng chung với giải phẫu, phương pháp này có khả năng trị tuyệt từ 60 tới 90% tế bào ung thư nhiếp tuyến.
b- Giải phẫu mà không gây liệt dương. Trong phương pháp này, sau khi cắt bỏ nhiếp tuyến và giây thần kinh điều khiển sự cương dương, nguờì ta lấy một đoạn giây thần kinh ở dưới cổ chân, cấy nơi bẹn để thay thế cho giây thần kinh đã bị cắt bỏ. Phương pháp đang ở trong vòng thử nghiệm ở Viện ung thư MD Anderson, Texas. Hy vọng là trong vài năm sẽ được hoàn chỉnh và được mang ra sử dụng để tránh cho người bệnh khỏi bị liệt dương vì giải phẫu cứu sống.
4- Ung Thư Ruột già.
Đây là loại ung thư đứng hàng thứ tư ở cả nam lẫn nữ giới. Mỗi năm bên Mỹ có khoảng 150.000 ca mới. Số tử vong khoảng 55.000 người.
a- Phối hợp Xạ trị và Giải phẫu. Trong phương pháp này, khi giải phẫu thì xạ liệu cũng được dùng song hành để tiêu diệt tế bào ung thư.. Xạ liệu được đưa tới trực tiếp tế bào bệnh nên không ảnh hưởng gì tới tế bào lành. Phương pháp rất tốt khi ung thư giới hạn ở ruột chứ khi đã lan ra các cơ quan lân cận thì quá trễ. Nhiều trung tâm ung thư đã áp dụng phương pháp này.
b- Bỏ đói ung thư (Starving tumors). Tế bào ung thư chỉ tăng sinh khi được nuôi dưỡng đầy đủ. Nếu ta ngăn chặn sự nuôi dưỡng này từ các mạch máu thì tế bào sẽ chết đói, ung thư ngưng phát triển. Đó là chủ đích của các dược phẩm Avastin, Endostatin, chặn sự phát triển của các mạch máu trong u ung thư.
Kết luận
Ngày nay, y khoa học đã mang lại nhiều hy vọng cứu sống cho các nan bệnh ung thư.
Bệnh nhân cũng có thể tìm tới các loại cây con mà loài người có kinh nghiệm về trị bệnh từ lâu. Ðông y ta đã từng dùng lá đu đủ, nấm linh chi, dây tóc tiên, cây rẻ quạt, bạch truật, nam sa sâm, ý dĩ vân vân và đã có trường hợp ung thư thuyên giảm. Có bệnh thì vái tứ phương mà.
Nhưng có lẽ chỉ nên tìm tới các món này khi mà các phương tiện khoa học hiện có bó tay hoặc dùng phụ thêm nếu không có chống chỉ định. Vì dù sao thì các phương tiện thực nghiệm cũng đã được chứng minh sự hữu hiệu, chẳng trăm phần trăm thì cũng dăm bẩy chục phần trăm.
Ngoài ra, tình trạng tâm trí cũng có ảnh hưởng tới việc điều trị ung thư và các nan bệnh khác. Một hiểu biết cặn kẽ về bệnh tật, một thái độ tích cực, một thư giãn tâm hồn làm tăng khả năng miễn dịch của cơ thể để đối phó với khó khăn.
Như giải phẫu gia Berbard S. Siegel, Ðại học Y khoa Yale nhận xét: “Thể chất đáp ứng với các tín hiệu từ trí óc, một cách ý thức hoặc vô ý thức. Các tín hiệu này có thề là “sinh” hoặc “tử”. Tôi nghĩ là con người không những chỉ có bản năng sinh tồn mà còn bản năng tự hủy. Bản năng tự hủy khiến cơ thể ngưng sự tự vệ, giảm hoạt động các chức năng, đưa ta tới tử địa khi chúng ta nghĩ là đời không còn đáng sống nữa”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét